Thứ Năm, 9 tháng 2, 2017

Trí tuệ quản lý

 Lê Qúy Đôn cho rằng: “Phi nông bất ổn - Phi công bất phú - Phi thương bất hoạt - Phi trí bất hưng”

Có thể hiểu kinh tế tri thức là một nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Và trong nền kinh tế đó, tri thức đóng vai trò quyết định hàng đầu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia, bởi lẽ tri thức là bộ phận nguồn lực quan trọng nhất, quyết định nhất của lực lượng sản xuất hiện đại, mà trình độ phát triển của lực lượng sản xuất lại đóng vai trò quyết định sự phát triển xã hội.
Với nhận định, thời gian tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức; hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn; toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy mạnh, Đại hội Đảng lần thứ XII xác định cần nỗ lực tập trung: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hoà bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”(1).
Mặc dầu kinh tế Việt Nam trong hơn 30 năm qua đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận với chính sách đổi mới, chuyển sang kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Việt Nam đạt sự tăng trưởng nhanh trong những năm đầu thập kỷ 90 thế kỷ XX, tiếp đó, vượt qua tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính khu vực, tiếp tục tăng trưởng khá trong thập niên đầu thế kỷ XXI… Tuy nhiên, để tiếp tục bước đi cùng một nhịp với thời đại - thời đại tri thức và thông tin, cần đổi mới tư duy dựa trên phát triển trí tuệ con người, coi tri thức là nguồn gốc của mọi của cải; coi trọng tài sản trí tuệ hơn tài sản hữu hình; đội ngũ trí thức là chủ thể của nền kinh tế tri thức, và cũng chính họ là trụ cột của nền công vụ. Một nền kinh tế không dựa vào nguồn lực trí tuệ, không được quản trị tốt sẽ không có sức cạnh tranh trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay.
Trong nền kinh tế tri thức: trọng tâm của quản lý kinh tế cần chuyển từ quản lý nguồn lực vật chất (hữu hình) sang quản lý nguồn lực trí tuệ (vô hình), tức là chuyển sang quản lý tri thức và quản lý dựa trên tri thức, khơi dậy các năng lực sáng tạo, tạo ra tri thức mới và sử dụng có hiệu quả tri thức, biến tri thức thành giá trị. Từ đó, vai trò của chính phủ sẽ chuyển từ chức năng kiểm soát, chỉ huy sang chức năng kiến tạo phát triển, tức chức năng định hướng phát triển và chức năng bà đỡ cho nền kinh tế, tạo cơ hội bình đẳng cho mọi người sản xuất kinh doanh, chăm lo nuôi dưỡng các khả năng sáng tạo, phát triển các nhân tố mới. Như vậy, cần từ bỏ cung cách quản lý quan liêu, kiến tạo một nền công vụ hướng tới thúc đẩy quá trình đổi mới dựa trên sự “thiết lập hệ thống đổi mới sáng tạo trong toàn nền kinh tế, tạo sự liên kết hữu cơ khoa học - đào tạo - sản xuất kinh doanh, cơ chế tài chính, tín dụng thỏa đáng”; phát triển thị trường công nghệ, quỹ đầu tư mạo hiểm, các khu công nghệ cao, vườn ươm công nghệ, vườn ươm doanh nghiệp, phát triển hệ thống cụm tri thức (knowledge cluster) từ trung ương đến các vùng, các địa phương để hỗ trợ thúc đẩy việc tạo và nhanh chóng sử dụng tri thức sát với tình hình cụ thể; thực thi chính sách thỏa đáng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với từng giai đoạn phát triển, theo nguyên tắc bảo đảm hài hòa lợi ích của người sáng tạo, người sử dụng và lợi ích chung của xã hội, lợi ích của đất nước. Đổi mới sáng tạo (innovation) trở thành động lực chủ yếu của sự tăng trưởng và phát triển khi nó tạo ra những của cải và các giá trị mới. Điều đó đòi hỏi phải đầu tư cho vốn tri thức, phát triển vốn tri thức, không ngừng nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới trong mọi lĩnh vực, không loại trừ lĩnh vực quản lý nhà nước, để có được cách thức quản trị, điều hành mới, tạo những sản phẩm mới, khác biệt, thậm chí duy nhất. 
Để “xây dựng một nền công vụ chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch, hiệu quả vì nhân dân, phục vụ nhân dân, góp phần quan trọng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, phòng chống tham nhũng và bảo đảm sự thành công của công cuộc cải cách mà Đảng và Nhà nước ta đang quyết tâm thực hiện”(2) cần “phát huy trí tuệ tập thể”. Song, cũng cần ý thức rõ ràng rằng trí tuệ tập thể bao gồm các yếu tố cấu thành. Trong nền công vụ đó là “trí tuệ quản lý” - một hình thức biểu hiện đặc biệt của “trí tuệ tập thể”, một loại hình “trí tuệ chuyên môn” quản lý. Trí tuệ quản lý là sự tổng hợp đặc biệt một số phẩm chất trí tuệ xã hội và “phổ quát”, tổ hợp lô-gic và bản năng, với phong cách tư duy nổi trội là tính tổng hợp, phân tích và hữu dụng. Trí tuệ quản lý có ý nghĩa tác động to lớn đến hiệu quả của nền công vụ - hoạt động do công chức nhân danh nhà nước thực hiện theo quy định của pháp luật và được pháp luật bảo vệ nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân. Sự tác động đó tương ứng với tính thứ bậc của nền công vụ. Chức vụ càng cao thì cái giá phải trả cho các sai lầm quản lý cũng càng cao. Có sai lầm ảnh hưởng đến một cá nhân, một tập thể, có sai lầm mà có thể cả một dân tộc phải hứng chịu.
Phân tích đặc thù hoạt động chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức cho thấy trong hoạt động công vụ nảy sinh và hình thành các yếu tố cấu thành của “trí tuệ chuyên môn” như: năng lực và kỹ năng sử dụng hiệu quả các công cụ hoạt động; năng lực tư duy chiến lược sâu và linh hoạt cao, sáng tạo và độc đáo, phân tích lô-gic “phản biện sâu”; hoạch định và tổ chức thực hiện công việc khoa học, có tính tác nghiệp cao, cẩn trọng và tập trung; khả năng phán đoán, phòng ngừa rủi ro, đánh giá khách quan các hậu quả, quyết đoán nhanh trong điều kiện hạn chế về thời gian, trên cơ sở kết hợp với các yếu tố của tư duy trí tuệ xã hội như năng lực tương tác và phối hợp hiệu quả với các đồng nghiệp trong thực thi công vụ.
Người cán bộ, công chức hiện đại với “trí tuệ quản lý” cần là người có:
- Ý chí, nỗ lực quyết tâm; có tích luỹ kinh nghiệm, biết không ngừng trau dồi kiến thức và học hỏi để hoàn thiện mình. Năng lực lãnh đạo là cả một quá trình mà tại đó một cá nhân có ảnh hưởng lên những người khác để họ hoàn thành một mục tiêu và một hướng dẫn nào đó theo phương cách nối kết với nhau sao cho có hiệu quả nhất. Các nhà lãnh đạo thực hiện quá trình này bằng chính các kỹ năng chỉ huy của mình, chẳng hạn như lòng tin, sự tôn trọng, cách ứng nhân xử thế, tính cách, với tư duy sắc sảo của người lãnh đạo (có lô-gic + tầm nhìn), cảm nhận được thực tiễn và luôn đi thẳng vào vấn đề. 
- Có đủ năng lực, tinh thần trách nhiệm, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đặc biệt đối với cán bộ, công chức lãnh đạo phải là người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề trong những hoàn cảnh khó khăn; khi thất bại không hoang mang, khi thắng lợi không kiêu ngạo; luôn luôn giữ đúng kỷ luật.
- Thẩm thấu sâu sắc các giá trị cơ bản cơ bản của nền công vụ: bảo đảm hiệu lực và hiệu quả quản lý; tính trách nhiệm trước Nhà nước và trước nhân dân; tuân thủ pháp luật, thực hiện công bằng xã hội; tôn trọng cống hiến, công trạng và thành tích của công chức; bảo đảm quyền và nghĩa vụ của cán bộ, công chức.
- Có khả năng tiếp cận mới với các vấn đề về chính trị, kinh tế, hành chính, tư pháp, pháp lý, xã hội học, văn hóa dân tộc và sự dung hòa các nền văn hóa khác nhau, vấn đề quốc gia, dân tộc, quản trị công… trong thời đại tri thức, khi nhiều quan niệm, khái niệm thay đổi và xuất hiện mới. 
- Năng lực xác lập các mối quan hệ nhân quả và vấn đề then chốt (“mắt xích” quan trọng; khâu đột phá), mà tập trung vào giải quyết sẽ quyết định được các vấn đề khác.
- Khả năng mô hình hoá các quá trình, quy trình, dự báo (đoán định) được sự phát triển và các hệ quả của hoàn cảnh gắn liền với hoạt động của cơ quan, tổ chức để có cơ sở đưa ra các quyết định quản lý tương ứng.
- Hiểu biết sâu sắc các quan tâm, lợi ích, động cơ và tâm lý con người, năng lực lựa chọn cán bộ, công chức cho các vị trí chủ chốt, tập hợp, đoàn kết và tập trung nỗ lực tập thể cho việc giải quyết các vấn đề đặt ra.
- Năng lực thao tác một khối lượng rất lớn các dữ liệu luôn biến động trong xây dựng các kế hoạch dài hạn và ngắn hạn.
- Tư duy đánh giá phê phán, kỹ năng học tập qua “rút kinh nghiệm”, hiểu biết bản chất các nguyên tắc quản lý, tính cần thiết của các biện pháp cứng rắn và không thông thường trong quan hệ với cấp dưới để đảm bảo tính thứ bậc của nền công vụ.
- Từ điển Pratique du Francais 1987 định nghĩa rất gọn rằng: "Công vụ là công việc của công chức". Như vậy, người cán bộ, công chức cần đảm bảo những yêu cầu về tính chuyên nghiệp của đội ngũ công chức như: tinh thông nghiệp vụ; có các kỹ năng thuần thục để thực thi các nghiệp vụ đó; hiểu rõ và biết vận dụng những nguyên tắc quản lý điều hành như một khoa học và nghệ thuật; hiểu rõ và thực thi đúng quy chế công vụ.
- Đủ năng lực cảm nhận và thực hành các giá trị nhân văn của nền công vụ, khi định hình được tri thức văn hoá nền tảng, “cốt lõi”; xác định rõ phạm vi các khái niệm tinh thần - đạo đức cơ bản và đưa chúng trở thành các hành vi công vụ; xác định được các yếu tố thúc đẩy sự chuyển biến các giá trị nhân văn của giáo dục - giáo dưỡng vào hoàn thiện nhân cách cán bộ, công chức, trên tinh thần đảm bảo mỗi cá nhân sẽ ý thức được các giá trị cơ bản (nền tảng) của cá nhân trong quá trình phát triển nhân cách.
Piter Drucker, nhà quản trị học người Mỹ đã có nhận định rằng: trong thế kỷ XXI, cơ sở nền tảng (nguyên tắc) của hoạt động doanh nghiệp được chuyển từ “dựa trên tổ chức tối ưu hóa” sang “dựa trên tri thức và thông tin”, tức là phần lớn công việc được thực hiện bởi các chuyên gia “tư duy chiến lược”. Trong quản lý nhà nước, nguyên tắc đó cũng rất phù hợp. Dựa vào đó, cần ý thức được rằng: cần có cơ chế quản lý từ “trung tâm đầu não”, nơi nghiên cứu và dự báo các vấn đề mới nảy sinh, còn các đơn vị thừa hành vẫn tiếp tục thực hiện giải quyết các vấn đề đã đặt ra. Những vấn đề dự báo không chỉ có tính lâu dài, mà có thể có tính cấp thiết cần được giải quyết ngay.
Những tri thức và thông tin cần thiết để giải quyết những vấn đề xã hội có thể có được từ 2 nguồn: phương pháp “thử nghiệm” và nghiên cứu khoa học. Phương pháp thử nghiệm dựa trên lựa chọn ngẫu nhiên một trong các phương án giải quyết vấn đề và phân tích các kết quả đạt được. Sau một loạt các thử nghiệm sẽ hình thành kinh nghiệm nhất định (tích cực và tiêu cực). Kinh nghiệm đó sẽ trở thành cơ sở của những tri thức về vấn đề. Trong khi đó, những phương pháp nghiên cứu khoa học hướng tới tìm kiếm các tri thức mới trên cơ sở tiến hành các nghiên cứu chuyên biệt.
Các quyết định được lựa chọn không phải ngẫu nhiên, mà xuất phát từ “tầm nhìn” (hình dung) về hình mẫu (mô hình) vấn đề, tức là hình dung về hệ quả của quyết định đã được lựa chọn. Nếu vấn đề nảy sinh được giải quyết thành công sẽ tạo niềm tin đối với mô hình và tạo ra tri thức về cách giải quyết vấn đề nếu xảy ra tương tự trong tương lai. 
Mô hình quản lý giải quyết những vấn đề mới nảy sinh dựa trên sử dụng hai dạng tri thức, là:
- Tri thức phản ánh kinh nghiệm của mình và thế giới (tích cực và tiêu cực) trong giải quyết vấn đề quản lý;
- Tri thức có được từ mô hình hóa vấn đề và tiến hành các thử nghiệm khoa học đối với mô hình đó.
Tri thức, các tư tưởng và mô hình văn hóa quản lý là sản phẩm của hoạt động sáng tạo của con người làm cơ sở tạo lập văn hóa xã hội, trong đó phản ánh kinh nghiệm thực tiễn và nghiên cứu khoa học trong giải quyết vấn đề. Khác với các thiết chế, sáng kiến và phương thức giải quyết vấn đề hướng tới giải quyết các vấn đề cụ thể, tri thức mang tính phổ quát và cần thiết để giải quyết tất cả mọi vấn đề, tạo ra tri thức như là sản phẩm tinh thần được tích lũy trong xã hội đảm bảo tính tiến bộ của phát triển xã hội.
Quản lý bằng tri thức là một hình thức quản lý dựa trên tri thức về vấn đề, tức là những thông tin cần thiết để xác định và giải quyết các vấn đề quản lý tổ chức. Tri thức sẽ giúp và đảm bảo giảm thiểu tính vô định và rủi ro trong việc ra quyết định, nhất là đối với những quyết định có thể là sai lầm. Thị trường thông tin ngày càng phát triển như vũ bão, thông tin trở thành hàng hóa, được coi là nguồn của tri thức (knowledge resources). Hình thành đội ngũ chuyên gia về tri thức (knowledge officers) có trách nhiệm đảm bảo thông tin cho quá trình ra các quyết định quản lý trong đội ngũ cán bộ, công chức là hết sức cần thiết. Từ đó nảy sinh vấn đề hệ thống hóa tri thức nhằm tìm kiếm nhanh chóng các thông tin cần thiết. Đặc biệt là việc cần thiết chuyển từ hệ thống thông tin theo ngành, lĩnh vực (tài chính, kinh tế, văn hóa… ) sang hệ thống theo “tư duy vấn đề” nhằm giải quyết ngay và càng nhanh chóng hiệu quả hơn các vấn đề quản lý.
Công cuộc cải cách và đổi mới nền hành chính nhà nước trong giai đoạn trước mắt đang đứng trước những thách thức của sự chuyển đổi về chất sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Sự vận hành nền kinh tế theo các quy luật của thị trường đòi hỏi phải đổi mới mạnh mẽ vai trò, chức năng của Nhà nước nói chung và của nền hành chính nhà nước nói riêng, đòi hỏi phải chuyển mạnh sang nền hành chính “phục vụ". Phải thấy rằng hội nhập quốc tế và khu vực vừa là thời cơ, thuận lợi, vừa đặt ra thách thức mới đối với nền hành chính nhà nước; quá trình đẩy mạnh dân chủ hóa đời sống xã hội, các yêu cầu về phát huy dân chủ cơ sở, thu hút mạnh mẽ sự tham gia của người dân vào quản lý nhà nước, về đảm bảo tính công khai, minh bạch trong thể chế, chính sách, thủ tục hành chính cũng như trong thực thi công vụ đòi hỏi, buộc các cơ quan nhà nước và các cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính phải thích ứng cả về nội dung lẫn phương thức hoạt động; đồng thời các tiến bộ khoa học, công nghệ, yêu cầu hiện đại hóa nền hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử có tác động mạnh mẽ, trực tiếp tới tổ chức, hoạt động của các cơ quan trong hệ thống hành chính, tới việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cả về trình độ, năng lực, ý thức trách nhiệm và tác phong, phương pháp công tác. Hơn thế nữa, ảnh hưởng của cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp trước đây, sức ỳ của nền hành chính cũ đang in đậm trong nếp nghĩ, cách làm của đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy, đang là trở ngại, thách thức lớn đối với công cuộc cải cách và hiện đại hoá hành chính nhà nước hiện nay.
Tóm lại, để phấn đấu có được một nền hành chính thật sự dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại, phù hợp với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong điều kiện mở cửa hội nhập quốc tế hướng tới xây dựng nền kinh tế tri thức, cần hiểu rõ rằng: Tri thức và công nghệ thông tin làm chuyển đổi rất nhanh cơ cấu kinh tế xã hội. Các công nghệ cao, truớc hết là công nghệ thông tin là nguồn gốc mọi sự biến đổi lớn lao trong sản xuất xã hội, góp phần đẩy mạnh cả sự đổi mới tư duy và tất yếu dẫn tới nền kinh tế tri thức toàn cầu hoá. Tri thức và thông tin luôn luôn đi tới những nơi có nhu cầu cao nhất và bị ít rào cản nhất. Vì vậy, cần đổi mới toàn diện các lĩnh vực: đổi mới mô hình tăng trưởng theo định hướng kinh tế tri thức, đổi mới doanh nghiệp theo hướng doanh nghiệp tri thức, đổi mới toàn diện và triệt để giáo dục và đào tạo, xây dựng đội ngũ trí thức đủ năng lực sáng tạo, xây dựng đội ngũ công nhân tri thức, xây dựng xã hội học tập, đổi mới hệ thống khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực khoa học và công nghệ quốc gia, phát triển mạnh hạ tầng thông tin, xây dựng xã hội thông tin, hình thành hệ thống đổi mới sáng tạo có thể nhanh chóng biến tri thức thành giá trị. Vốn tri thức xã hội gắn liền với vốn con người - những nguồn lực cơ bản của phát triển. Tài nguyên là có hạn, tri thức, sự sáng tạo là vô hạn. Sức mạnh cạnh tranh trên mọi lĩnh vực ngày nay là cạnh tranh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, là chuyển dịch hiệu quả từ trang bị kiến thức sang bồi dưỡng năng lực trong một xã hội học tập suốt đời, kể cả trong nền công vụ. Một nền công vụ hiện đại phải là “trí tuệ”, với đội ngũ cán bộ, công chức có tính chuyên nghiệp cao. Tương lai phát triển của đất nước phụ thuộc phần lớn vào đội ngũ cán bộ, công chức trí tuệ, chuyên nghiệp, tận tụy phục vụ xã hội. Sự kích hoạt đối với chuyển động đó không là gì khác, ngoài ý chí chính trị của Đảng và sự nhất quán hành chính của Nhà nước./.
-------------------------------------------
Chú thích:
1. Nghị quyết Đại hội dại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII.
2. Nguyễn Xuân Phúc. Quyết tâm cải cách công vụ, công chức để xây dựng một nền hành chính phục vụ nhân dân. Cổng TTĐT Chính phủ.http://baodientu.chinhphu.vn
PGS.TS. Lưu Kiếm Thanh, PGS.TS. Ngô Thành CanHọc viện Hành chính quốc gia
Nguồn chép: Tạp Chí Cộng Sản

Một số khía cạnh bản chất của mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam

Cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định, kinh tế và chính trị vốn là hai lĩnh vực rộng lớn, cơ bản và quan trọng nhất của đời sống xã hội. Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị lại càng rộng lớn, đa dạng, phức tạp hơn. Để nhận thức rõ bản chất, nội dung của mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam, ngoài việc trực tiếp phân tích mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng (kinh tế) và kiến trúc thượng tầng (chính trị) đòi hỏi phải tìm hiểu những hình thức biểu hiện khác nhau của mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, tức là cần “lượng hóa” mối quan hệ này bằng các mối quan hệ “thứ cấp”, mối quan hệ cụ thể. 
Việc “lượng hóa” mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam thành các mối quan hệ “thứ cấp” cần tuân thủ theo những cơ chế, các nguyên tắc cơ bản: 1- Đó là các quan hệ phản ánh tập trung nhất, khái quát nhất, bản chất nhất mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. 2- Đó là những mối quan hệ phản ánh đúng mâu thuẫn, bản chất của quá trình đổi mới và phát triển của Việt Nam, mà trước hết là phát triển kinh tế. 3- Đó là những quan hệ phản ánh đặc trưng của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, vừa phù hợp với quy luật, xu thế của thời đại, vừa phù hợp với trình độ phát triển và bản sắc dân tộc(1). 
Do tính chất rộng lớn, đa dạng, phức tạp của mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị nên các mối quan hệ “thứ cấp” của nó cũng biểu hiện rất phong phú và sinh động. Tuy nhiên, có ba mối quan hệ cơ bản, cốt lõi nhất trong bản chất của mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam. 
Thứ nhất, mối quan hệ giữa xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với xây dựng và hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa. 
Đây là mối quan hệ chủ yếu, phản ánh tập trung nhất mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; bảo đảm giải quyết đúng đắn, hài hòa quan hệ giữa quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế. Đảng ta xác định, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là hệ thống “các thiết chế, công cụ và nguyên tắc vận hành kinh tế thị trường được tự giác tạo lập và sử dụng để giải phóng triệt để sức sản xuất, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”(2).
Xét về mặt nguyên tắc, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tất yếu phải là thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa. Và, theo quan điểm của Đảng, thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa là “hệ thống các quy tắc, quy định pháp luật, các luật lệ với tư cách là những chuẩn mực điều chỉnh hành vi của các chủ thể chính trị, các tổ chức chính trị, các cơ quan quản lý nhà nước và cơ chế vận hành; điều chỉnh các hoạt động trong lĩnh vực chính trị hướng tới thiết lập và phát triển nền chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân”(3).
Trên thực tế, để phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta xác định, thể chế chính trị phải được tổ chức và hoạt động phù hợp với thị trường. Đặc biệt, để tuân thủ đúng cơ chế thị trường luôn đặt ra yêu cầu cấp thiết phải sắp xếp lại chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể thuộc thể chế chính trị, nhất là thể chế nhà nước. Bên cạnh đó, sự phát triển nhanh chóng, năng động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi thể chế chính trị phải thường xuyên đổi mới, hoàn thiện theo hướng dân chủ xã hội chủ nghĩa nhằm bảo đảm cho thể chế chính trị không những luôn phù hợp với các bước phát triển của kinh tế, mà còn phải luôn ở thế chủ động trong các quan hệ kinh tế, thật sự có khả năng lãnh đạo kinh tế phát triển theo đúng định hướng. Vì thế, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, năng lực điều hành, quản lý của Nhà nước trong kinh tế là điều kiện tiên quyết để thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa đóng vai trò là nhân tố quan trọng, tác động tích cực đối với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Ngược lại, với tư cách là nhân tố giữ vai trò quyết định, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta ngày càng được hoàn thiện, phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây chính là điều kiện thuận lợi để từng bước hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa, đồng thời cũng là cơ sở cho việc hiện thực hóa những định hướng chính trị cho xã hội. Trong Văn kiện Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị”(4).
Đảng ta xác định rõ: xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ tạo ra môi trường và động lực phát triển kinh tế, củng cố cơ sở kinh tế cho đổi mới chính trị, cho việc xây dựng và hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa. Chính thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đóng vai trò động lực to lớn cho sự phát triển một tư duy chính trị năng động, cho việc hoàn thiện một thể chế nhà nước gần dân, sát thực với cuộc sống, cho việc tăng cường và củng cố dân chủ trong hoạt động của các đoàn thể chính trị - xã hội, của nhân dân. Tính năng động và bản chất dân chủ của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi và tạo tiền đề kinh tế - xã hội cho tính năng động và dân chủ trong các thể chế chính trị.
Đổi mới chính trị cũng như quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa sẽ tạo ra cơ sở chính trị - pháp lý cho sự phát triển kinh tế, cũng như cho việc xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc Đảng, Nhà nước lựa chọn mô hình kinh tế như thế nào có vai trò quyết định đến mối quan hệ giữa các tổ chức kinh tế tồn tại trong xã hội, đến cách thức tổ chức, sự vận hành, cơ chế sản xuất, kinh doanh,... cũng như đến mối quan hệ với Đảng và Nhà nước. Vai trò của thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa đối với thể chế kinh tế thị trường được thể hiện trước hết và chủ yếu ở việc giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trong quá trình đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị. Sự lãnh đạo đúng đắn, dựa trên tầm cao trí tuệ khoa học của Đảng là nhân tố quyết định để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của đổi mới kinh tế. 
Thứ hai, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong những vấn đề căn bản của triết lý phát triển ở Việt Nam hiện nay. Đảng ta đã sớm khẳng định, nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng nhất thiết phải có sự quản lý của Nhà nước; phải “bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”(5). Điều đó có nghĩa là, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa luôn là mối quan hệ biện chứng. Bởi lẽ, hai yếu tố quyết định cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường là nhà nước và thị trường. Cho nên, bàn về tính hiệu quả của nền kinh tế thị trường, mấu chốt là phải xác định rõ thực trạng của mối quan hệ này. 
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, có đủ bản lĩnh và khả năng tự đổi mới để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại. Và “Nhà nước quản lý, điều tiết nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, các công cụ kinh tế và lực lượng vật chất cần thiết và phù hợp với nguyên tắc của kinh tế thị trường”(6). Đặc điểm đó thể hiện sự khác biệt về chất của mô hình kinh tế thị trường mà nước ta hướng tới so với các mô hình kinh tế thị trường khác. 
Kinh tế thị trường ra đời và phát triển đã giải phóng và phát huy mạnh mẽ sức sản xuất xã hội cho phát triển kinh tế. Song, bản thân kinh tế thị trường không thể khắc phục được những khuyết tật cố hữu của nó, như khủng hoảng chu kỳ, tàn phá môi trường, phân tầng và phân hóa xã hội, băng hoại nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp,... Bởi thế, đồng thời với việc phát triển nền kinh tế thị trường, Đảng ta luôn coi trọng từng bước xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, để Nhà nước thực hiện tốt chức năng điều tiết, quản lý nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thông qua đó nhằm phát huy những mặt tích cực và hạn chế những khuyết tật của kinh tế thị trường, xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, tiến bộ, phấn đấu đạt được các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. 
Bên cạnh đó, kinh tế thị trường vốn là một kiểu quan hệ giữa người với người trong sản xuất, trao đổi và tiêu dùng, nên mang đậm dấu ấn của quan hệ xã hội, của thể chế chính trị được xây dựng trên nền tảng kinh tế đó. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có tác động trực tiếp nhất tới việc định hướng sự vận động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Pháp luật, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải phản ánh chính xác yêu cầu phát triển khách quan của thị trường, lấy quy luật thị trường làm cơ sở. 
Trong 30 năm đổi mới vừa qua, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa từng bước được xây dựng và hoàn thiện, nhất là việc coi trọng đổi mới vai trò quản lý nhà nước về kinh tế. Nhà nước giảm bớt các chỉ tiêu pháp lệnh, thu hẹp và từng bước xóa bỏ việc quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước bằng kế hoạch tập trung, quan liêu, bao cấp, đồng thời thay vào đó là Nhà nước quản lý, điều tiết nền kinh tế thông qua pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, các công cụ kinh tế và lực lượng vật chất cần thiết. Nhà nước đóng vai trò là một chủ thể kinh tế trên thị trường thông qua việc đầu tư vốn và quản lý tài sản công; tách quyền sở hữu và quyền quản lý, sử dụng; có sự phân cấp ngày càng nhiều hơn để phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương và cơ sở; xóa bỏ các hình thức bao cấp, hạn chế, kiểm soát và xóa bỏ độc quyền kinh doanh,... Nhà nước cũng đã tích cực ban hành các chủ trương, chính sách mở rộng các quan hệ thương mại, xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ với các nước, các đối tác; tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài; chủ động tham gia các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới.
Thứ ba, mối quan hệ giữa ổn định chính trị và đổi mới, phát triển kinh tế.
Trong mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam, Đảng ta xác định, vấn đề ưu tiên giải quyết trước là mối quan hệ giữa ổn định và phát triển. Ổn định và phát triển vừa là tiền đề, điều kiện của nhau, vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả của nhau. Ổn định chính trị - xã hội chính là một trạng thái bền vững của hệ thống xã hội, bảo đảm sự hoạt động và phát triển tối ưu của nó theo xu hướng tiến bộ, phù hợp với quy luật khách quan, ở đó quyền lực chính trị được phát huy trên cơ sở đồng thuận của đại đa số các thành viên xã hội. Ổn định chính trị - xã hội tích cực là tiền đề cho sự phát triển kinh tế, không có ổn định chính trị - xã hội chắc chắn không thể phát triển kinh tế. Đến lượt mình, nếu không phát triển kinh tế sẽ không thể giữ vững được ổn định chính trị - xã hội. 
Đổi mới chính trị, ổn định chính trị với đổi mới kinh tế và phát triển kinh tế luôn có quan hệ biện chứng, tác động qua lại, vừa là tiền đề, vừa là điều kiện trực tiếp, là động lực thúc đẩy lẫn nhau. Khi có ổn định chính trị - xã hội, chế độ chính trị được giữ vững thì các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội sẽ có sự phát triển cân đối, hài hòa. Vì vậy, ngay từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới, Đảng ta đã khẳng định: giữ vững ổn định chính trị là một nguyên tắc của đổi mới. 
Tuy nhiên, “tình huống lý luận và thực tiễn đặt ra là: một mặt, phải đổi mới và phát triển nhanh, mà đổi mới với đúng tầm mức của nó: đổi mới căn bản, toàn diện, triệt để, chứ không phải là cải tiến, điều chỉnh việc này, việc kia; mặt khác, phải giữ vững cho được ổn định chính trị - xã hội, không được để xảy ra rối loạn, vô chính phủ”(7). Theo lô-gíc hình thức, hai yêu cầu này dường như trái ngược nhau, mâu thuẫn với nhau, không thể tương hợp và sẽ rất dễ rơi vào tình trạng để giữ ổn định thì không muốn đổi mới, nhất là đổi mới chính trị; ngược lại, muốn đổi mới nhanh thì không thể không chấp nhận những đảo lộn lớn hay sự mất ổn định trong lĩnh vực này, lĩnh vực khác. Song, biện chứng của cuộc sống không phải như vậy.
Lời giải cho vấn đề này nằm ở việc nhận thức đúng mục tiêu, điều hành đúng phạm vi và có phương thức đúng trong thực hành đổi mới, thực hiện tốt sự kết hợp giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Trong đó, mục tiêu của đổi mới là giữ ổn định chính trị - xã hội vững chắc trên nền tảng kinh tế phát triển, đời sống của các tầng lớp nhân dân được nâng cao, xã hội dân chủ và đồng thuận. 
Ngay từ khi bắt đầu đổi mới, Đảng ta xác định, mấu chốt của việc giữ vững ổn định chính trị là đổi mới và phát triển kinh tế, để giải phóng và tăng cường sức sản xuất xã hội, tăng thu nhập và cải thiện đời sống của nhân dân. Nói cách khác, phải tập trung đổi mới kinh tế trước, vì khủng hoảng kinh tế - xã hội lúc bấy giờ đã đến mức cực kỳ nghiêm trọng. Có đổi mới mạnh mẽ về kinh tế mới tạo được các điều kiện cơ bản để giữ vững ổn định chính trị và thông qua đó mới tiến hành đổi mới chính trị thuận lợi, thậm chí mới biết rõ trong chính trị cần đổi mới những gì, đổi mới ra sao, theo hướng nào,... Và, đổi mới như thế sẽ vẫn giữ vững mục tiêu và bản chất chế độ, không gây ra những đảo lộn hay bất ổn về chính trị. Về phạm vi của đổi mới, trên cơ sở giữ vững 6 nguyên tắc đổi mới được xác định trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa VI và 6 định hướng lớn được xác định trong Nghị quyết số 09-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa VII, hoàn toàn được phép đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và triệt để. Về phương thức tiến hành đổi mới, phải tiến hành cả “từ trên xuống” và “từ dưới lên”, có bước đi vững chắc, với những vấn đề mới và khó phải nghiên cứu kỹ, làm thí điểm để rút kinh nghiệm trước khi triển khai trên diện rộng; đặc biệt, phải dựa vào nhân dân, trên cơ sở dân chủ. Với phương thức ấy sẽ bảo đảm tính chủ động cao, khả năng kiểm soát chặt chẽ các tiến trình xã hội, ngăn chặn từ gốc các nhân tố có thể gây mất ổn định chính trị - xã hội, khủng hoảng kinh tế. Và, “trạng thái ổn định được tạo lập theo phương thức ấy là sự ổn định thực chất, có nền tảng vững chắc, ổn định trong xu thế phát triển, không giả tạo hay chỉ được xác lập bằng mệnh lệnh hành chính, không chỉ giữ được ổn định bằng tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân, mà còn củng cố vững chắc khối đại đoàn kết, đồng thuận xã hội, thực hiện đúng “ý Đảng hợp với lòng dân””(8). 
Trong thời kỳ đổi mới, mối quan hệ giữa ổn định chính trị với đổi mới, phát triển kinh tế đã, đang được Đảng ta nhận thức và chú trọng giải quyết hài hòa, hợp lý, hiệu quả. Trong đó, sự ổn định chính trị tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy đổi mới, phát triển kinh tế, và ngược lại, đổi mới, phát triển kinh tế lại góp phần tích cực nhất vào ổn định chính trị; qua đó góp phần đưa nước ta vượt qua được nhiều khó khăn, thử thách, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế./.
-------------------------------------------
(1) Xem: Dương Xuân Ngọc (Chủ biên), Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 89 - 90
(2) Văn kiện hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 139
(3) Dương Xuân Ngọc (Chủ biên): Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam, Sđd, tr. 93
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 104
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 78
(6) Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 - 2016), Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội 2015, tr. 65
(7), (8) Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (Đồng chủ biên): Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 349, 350
Nguyễn Đình BắcTS, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòngNguồn lấy: Tạp Chí Cộng Sản

Vai trò của đồng chí Trường Chinh đối với cách mạng Việt Nam trên cương vị là Tổng Bí thư

Đồng chí Trường Chinh với tư duy chiến lược tài năng và sáng tạo trong thời kỳ Cách mạng Tháng Tám
Tại Hội nghị Trung ương 7 (tháng 11-1940), đồng chí Trường Chinh được cử làm Quyền Tổng Bí thư thay đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ (bị thực dân Pháp bắt rồi xử bắn váo tháng 8-1940). Tại Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5-1941), đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Từ Hội nghị này, Đảng ta đã hoàn chỉnh cuộc chuyển hướng chiến lược cho phù hợp với tình hình quốc tế và trong nước. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khẳng định: "Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được"(1). 
Trên cơ sở làm sáng tỏ tinh thần của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, trong tài liệu chính sách mới của Đảng(2) , viết tháng 9-1941, đồng chí Trường Chinh đã chỉ rõ: "Cuộc cách mạng Đông Dương hiện thời là cách mạng giải phóng dân tộc"; "lúc này, nhiệm vụ phản đế nặng nề và cấp bách hơn nhiệm vụ ruộng đất". Lúc này quyền lợi dân tộc cao hơn hết thẩy. Quyền lợi của bộ phận phải phục tùng quyền lợi của toàn thể quốc gia, dân tộc. “Đông Dương không được giải phóng khỏi ách đế quốc thì dân tộc sẽ vô cùng đau khổ và bị diệt vong. Cho nên, bất cứ một nhiệm vụ gì chưa cần kíp mà đặt ra lúc này có thể tổn hại cho nhiệm vụ phản đế thì phải gác lại để giải quyết sau". 
Quyết định chuyển hướng chiến lược của Hội nghị Trung ương 8, rõ ràng là sự hoàn chỉnh quá trình chuyển hướng chiến lược được bắt đầu từ Hội nghị Trung ương 6 (tháng 11-1939), đồng thời là sự trở về với tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc được khẳng định trong Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt (tháng giêng năm 1930). Cần nhận rõ, một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đó là sự vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, thông qua vai trò của lãnh tụ Hồ Chí Minh và được các học trò của Người bổ sung, phát triển và tổ chức thực hiện một cách xuất sắc, đặc biệt là vai trò của đồng chí Trường Chinh. Đồng chí Trường Chinh người khởi thảo Nghị quyết Trung ương 8 - một nghị quyết đóng vai trò hết sức quan trọng trước một quyết định chiến lược mang ý nghĩa lịch sử.
Như vậy, trong tư duy chiến lược của đồng chí Trường Chinh đã tụ hội được tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân với những dự báo đúng đắn về tình thế cách mạng trực tiếp và thời cơ lịch sử cho khởi nghĩa giành chính quyền. 
Ngày 07-5-1944, để đẩy mạnh hơn nữa việc chuẩn bị khởi nghĩa, lấy danh nghĩa Tổng bộ Việt Minh, Tổng Bí thư Trường Chinh viết Chỉ thị “Sửa soạn khởi nghĩa”. Để đưa Chỉ thị quan trọng này vào quần chúng cả nước, bắt đầu từ trước đó, trên báo Cờ giải phóng xuất hiện một loạt bài, tập trung giải quyết vấn đề này dưới tiêu đề chung “Sửa soạn khởi nghĩa”. Để quán triệt sâu rộng hơn nữa tinh thần bản Chỉ thị, đồng chí Trường Chinh đã viết bài “Hãy nắm lấy khâu chính” đăng trên báo Cờ giải phóng, số 6 (ngày 25-7-1944), tóm tắt thành 5 việc cốt yếu để thi hành Chỉ thị nói trên của Tổng bộ Việt Minh. Đồng chí yêu cầu các địa phương ra sức phát triển các tổ chức tự vệ, tổ chức thêm bộ đội chiến đấu; huấn luyện thêm cán bộ quân sự; tìm hết cách sắm sửa vũ khí trang bị cho lực lượng vũ trang, vận động binh lính; làm cho chiến thuật khởi nghĩa phổ biến trong các tổ chức cách mạng và trong nhân dân. Bằng giác quan chính trị nhạy bén, đồng chí Trường Chinh phát hiện hàng loạt vấn đề liên quan đến nhiệm vụ sửa soạn khởi nghĩa để định hướng và chỉ đạo thực hiện từng nhiệm vụ cụ thể giúp cho người đọc của Cờ giải phóng hiểu rõ rằng, nhiệm vụ sửa soạn khởi nghĩa trở thành nhiệm vụ trọng tâm của cách mạng Việt Nam.
Trong bài “Phải tiến gấp” đăng trên Cờ giải phóng, số 6, ngày 28-7-1944, đồng chí kêu gọi : “Các chiến sĩ cách mạng Đông Dương! Các giới đồng bào yêu nước cùng thời cuộc trong ngoài hết sức có lợi cho ta. Dịp tốt ngàn năm có một đang lại. Hãy tiến gấp! Hãy kíp sửa soạn khởi nghĩa theo chỉ thị đã ra. Các đồng chí hãy kiên nhẫn và mạnh dạn thuyết phục đồng bào. Hãy thi nhau phát triển tổ chức; thi nhau đẩy mạnh phát triển đời sống quần chúng. Vận mệnh các dân tộc Đông Dương đã đặt trong tay chúng ta. Phải hy sinh, phải chiến đấu. Phải kiên quyết, tích cực. Bỏ lỡ cơ hội là một tội ác. Phải sẵn sàng đón lấy thời cơ và chuẩn bị đủ điều kiện tóm lấy nó”(3).
Khi nhận được tin báo có dấu hiệu chuẩn bị đảo chính lật đổ Pháp để toàn quyền thống trị Đông Dương của quân Nhật, Tổng Bí thư Trường Chinh lập tức triệu tập Hội nghị mở rộng Ban Thường vụ Trung ương Đảng tại làng Đình Bảng, Từ Sơn (Bắc Ninh) vào đêm 09-3-1945. Nội dung cuộc họp quan trọng này được thể hiện đầy đủ trong bản Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” do Tổng Bí thư Trường Chinh khởi thảo và hoàn chỉnh. Ngày 15-3-1945, Tổng Bí thư Trường Chinh chỉ đạo Mặt trận Việt Minh phát động Cao trào kháng Nhật, cứu nước. Để đẩy mạnh hơn nữa nhiệm vụ chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang, từ ngày 15 đến 20-4-1945, Tổng Bí thư Trường Chinh triệu tập và chủ trì Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, tại Hiệp Hòa, Bắc Giang (thuộc ATK2). Đây là Hội nghị quân sự quan trọng đầu tiên của Đảng nhằm giải quyết nhiệm vụ quân sự - nhiệm vụ quan trọng và cần kíp nhất của Đảng lúc này. Thực hiện Chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Trường Chinh và Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị toàn quốc của Đảng và Quốc dân đại hội để quyết định phát động tổng khởi nghĩa và thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng.
Sau Hội nghị Trung ương 8, Tổng Bí thư Trường Chinh nêu một số việc cần làm để thi hành Nghị quyết Trung ương, đó là tuyên truyền, phổ biến tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 đến tận chi bộ; tổ chức việc thi hành Nghị quyết của Đảng; làm cho quần chúng do kinh nghiệm bản thân mà nhận thấy chính sách mới của Đảng là duy nhất và nhận thấy khẩu hiệu của Đảng là của mình; phải ra sức đào tạo cán bộ để có người đủ năng lực đem chính sách mới của Đảng thi hành trong quần chúng; kiên quyết tẩy trừ bệnh “tả khuynh”, cô độc, hẹp hòi làm cho Đảng xa rời quần chúng, đồng thời phải chống bệnh “hữu khuynh”… Nhưng, để đường lối, chính sách mới của Đảng có thể đi vào cuộc sống, một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Tổng Bí thư là vấn đề xây dựng Đảng vững mạnh. Bởi vậy, ngay sau Hội nghị Trung ương 8, với bút danh Thiết Tâm, Tổng Bí thư viết bài “Củng cố Đảng” đăng trên báo Giải phóng, số 2, tháng 6-1941, bàn về vấn đề cán bộ và vấn đề sinh hoạt chi bộ. Ngày 21-12-1941, Tổng Bí thư triệu tập cuộc họp Ban Thường vụ Trung ương Đảng và ra Thông cáo “Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và trách nhiệm cần kíp của Đảng” gửi các cấp bộ đảng. Tiếp đó, vào giữa tháng 01-1942, đồng chí Trường Chinh viết gửi Ban Tuyên truyền huấn luyện Trung ương tài liệu “Chiến tranh Thái Bình Dương và cách mạng giải phóng dân tộc ở Đông Dương” để kịp thời uốn nắn một số lệch lạc trong nội bộ Đảng, giúp toàn Đảng nhận định đúng tình hình và xác định những nhiệm vụ cần kíp của cách mạng.
Về công tác tuyên truyền, sau một thời gian chuyển vào hoạt động bí mật ở các vùng phụ cận Hà Nội và về quê, giữa năm 1940, đồng chí Trường Chinh bắt liên lạc được với Xứ uỷ. Sau đó, đồng chí hoạt động chủ yếu ở các vùng Bắc Ninh, Bắc Giang, Phúc Yên, Đông Anh,… vừa chỉ đạo, vừa xây dựng cơ sở của các an toàn khu (ATK), vừa ổn định hệ thống tổ chức và cơ sở cho các cơ quan tuyên truyền của Đảng. Thời gian này, đồng chí chỉ đạo tiếp tục xuất bản báo Giải phóng, cơ quan ngôn luận của Xứ uỷ và trực tiếp làm chủ bút của báo. Trên cương vị Tổng Bí thư, đồng chí cho thành lập, chỉ đạo và viết bài cho các cơ quan báo chí của Đảng. Thông qua các tờ báo này, Tổng Bí thư truyền đạt nhận định về thời cuộc, truyền đạt đường lối, chủ trương của Đảng, tổ chức và uốn nắn phong trào cách mạng… Tháng 10-1941, đồng chí trực tiếp phụ trách Tạp chí Cộng sản - cơ quan lý luận và chính trị của Trung ương Đảng; tháng 01-1942, phụ trách báo Cứu quốc - cơ quan ngôn luận của Tổng bộ Việt Minh. Tháng 10-1942, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định ra báo Cờ giải phóng - cơ quan tuyên truyền, cổ động của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, do Tổng Bí thư trực tiếp phụ trách. Báo Cờ giải phóng số 1 ra ngày 10-10-1942 và kéo dài đến ngày 18-11-1945. Báo Cờ Giải phóng thực sự trở thành công cụ tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể và tổ chức tập thể.
Thực hiện chủ trương muốn cho sự tuyên truyền kịp thời và không bị gián đoạn, mỗi khi các đảng bộ mất liên lạc với nhau thì mỗi đảng bộ địa phương phải tìm cách ra báo chí tuyên truyền. Ít nhất là các ban Tỉnh uỷ phải có ban tuyên truyền chuyên môn xuất bản báo riêng ở trong tỉnh để tuyên truyền cho kịp thời, Tổng Bí thư chỉ đạo các địa phương đẩy mạnh công tác báo chí tuyên truyền để tạo sự đồng bộ với sự phát triển của tổ chức đảng và quần chúng khắp cả nước. Vì vậy, một loạt báo địa phương đã ra đời, góp phần tích cực và kịp thời vào việc tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và thông báo những biến đổi mau chóng của tình hình trong nước và quốc tế đến nhân dân. Do những hoạt động tích cực và bằng những biện pháp toàn diện của Tổng Bí thư, Ban Thường vụ Trung ương Đảng và các Xứ uỷ, các tổ chức đảng được củng cố, các văn kiện của Đảng đã được phổ biến tới các đảng bộ, chi bộ địa phương, tới các đảng viên và quần chúng cách mạng. Đến đầu năm 1942, Chương trình, Tuyên ngôn của Việt Minh và thư của đồng chí Nguyễn Ái Quốc (ngày 06-6-1941) đã vào đến Sài Gòn và Hậu Giang. Tình hình đó tạo ra khí thế cách mạng mới, một phong trào cách mạng mới trong cả nước.
Điều đó cho thấy, thắng lợi của cách mạng không tự nó đến mà phải chủ động, tích cực giành lấy nó. Tư duy chiến lược của đồng chí Trường Chinh trong thời điểm bước ngoặt này là rất khéo lợi dụng những điều kiện thuận lợi do chiến tranh diễn ra trên phạm vi thế giới và trong nước tạo ra, mà ra sức chuẩn bị khởi nghĩa. Mặt khác, tư duy chiến lược của đồng chí Trường Chinh không chỉ thể hiện ở tư duy chính trị thành thục mà còn thể hiện ở tư duy quân sự nhạy bén.
Như vậy, vấn đề chọn thời cơ, nắm thời cơ và chớp thời cơ tiến hành tổng khởi nghĩa toàn quốc đã được Đảng ta, Bác Hồ và Tổng Bí thư Trường Chinh vận dụng tài tình trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đó là vấn đề chọn thời cơ mà cuộc khởi nghĩa nổ ra đúng lúc, làm cho kẻ địch bất ngờ, trở tay không kịp. Chỉ trong 15 ngày, Cách mạng Tháng Tám thành công, giành chính quyền về tay nhân dân đối với hầu hết các địa phương trong cả nước. Đó là một trong những thành công nổi bật của tư duy chiến lược tài năng và bản lĩnh chính trị vững vàng của Tổng Bí thư Trường Chinh.
Vai trò của đồng chí Trường Chinh trong kháng chiến chống thực dân Pháp 1946-1954
Trên cương vị là Tổng Bí thư, đồng chí Trường Chinh không chỉ chú trọng chỉ đạo những công tác chung mà còn rất quan trọng chỉ đạo công tác quân sự. Nhiều hội nghị quân sự đồng chí Trường Chinh trực tiếp chủ trì với cương vị thay mặt Ban Chấp hành Trung ương lúc bấy giờ. 
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công - bước ngoặt vĩ đại của lịch sử dân tộc ta, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, Tổng Bí thư Trường Chinh đã cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng kịp thời khái quát những kinh nghiệm được tập dượt qua những cao trào trước đó, trong việc ra sức xây và thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc, nắm bắt thời cơ, chủ động tiến hành Tổng khởi nghĩa cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công rực rỡ.
Toàn quốc kháng chiến toàn quốc bùng nổ (ngày 19-12-1946), trên cương vị là Tổng Bí thư của Đảng, đồng chí Trường Chinh là một trong những nhà lãnh đạo chủ yếu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Tác phẩm "Kháng chiến nhất định thắng lợi" của Tổng Bí thư Trường Chinh đã bổ sung, phát triển sáng tạo đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mạnh nhân dân là chính. Tác phẩm này có vị trí đặc biệt quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển đường lối kháng chiến, khơi dậy sức mạnh toàn dân tộc và khẳng định ý chí chống xâm lược, giành độc lập dân tộc. Trong thực tiễn, đồng chí Trường Chinh không những chú trọng chỉ đạo nhiệm vụ kháng chiến, mà còn hết sức chú ý đến mặt kiến quốc, từng bước thực hiện khẩu hiệu "Người cày có ruộng", chuẩn bị những tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Từ những chủ trương, đường lối đúng đắn đó, cùng với thực tiễn sinh động, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta đã giành thắng lợi to lớn, ghi dấu ấn đậm nét trong lịch sử dân tộc ta.
Năm 1951, tại Đại hội lần thứ II của Đảng, với "Luận cương về cách mạng Việt Nam", đồng chí Trường Chinh đã phát triển khái niệm cách mạng tư sản dân quyền thành khái niệm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; đề ra một hệ thống lý luận, phương châm chiến lược và sách lược của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tại Hội nghị Trung ương 4 khoá II (tháng 1- 1953), Tổng Bí thư Trường Chinh nêu rõ phương châm chỉ đạo kháng chiến của Đảng: “Ta không chủ quan, khinh địch, không nóng vội, không mạo hiểm. Đánh ăn chắc, tiến ăn chắc. Chắc thắng thì kiên quyết đánh cho kỳ thắng. Không chắc thắng thì kiên quyết không đánh. Nếu chủ quan mạo hiểm mà một lần thua nặng, thì sẽ tai hại lớn. Chiến trường của ta hẹp, người của ta không nhiều, nên nói chung ta chỉ có thắng chứ không được bại, vì bại là hết vốn”. Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, đồng chí Trường Chinh đã có những đóng góp to lớn góp phần chèo lái con thuyền cách mạng nước nhà. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, trong điếu văn tại lễ truy điệu đồng chí Trường Chinh đã đánh giá: ''…Vai trò của đồng chí nổi bật là một trong những người lãnh đạo kiệt xuất đã đưa Cách mạng Tháng Tám đến thành công và đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi cuối cùng”, “đồng chí đã có nhiều đóng góp lớn vào sự lãnh đạo tập thể của Ban Chấp hành Trung ương Đảng trong những năm kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”(4).
Những cống hiến của Tổng Bí thư Trường Chinh trong công cuộc đổi mới 
Ngày 14-7-1986, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương đặc biệt bầu đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư của Đảng (5).
Nhận rõ trọng trách ở vị trí mới trước sự chờ đợi của toàn Đảng cũng như toàn dân ở thời điểm thật ngặt nghèo của lịch sử đất nước và dân tộc, đồng chí Trường Chinh đã làm hết sức mình chuẩn bị cho Đại hội VI của Đảng. Nhiều suy tính, quan điểm, khuynh hướng khác nhau đòi hỏi được quy về một mối. Đồng chí Trường Chinh đã tổ chức làm việc chặt chẽ dù quỹ thời gian chuẩn bị cho Đại hội rất eo hẹp. Đồng chí vừa nghe những thông tin khoa học, vừa nắm bắt tình hình cụ thể của các ban, các ngành và các địa phương, nhờ đó mà tìm ra những kết luận thoả đáng, thích hợp, làm cơ sở cho việc hoàn thiện Báo cáo chính trị của Đại hội VI.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, đồng chí Trường Chinh là người lát những viên gạch đầu tiên, đặt nền móng cho sự nghiệp vĩ đại ấy. Chính trong thời điểm phức tạp nhất của hoàn cảnh quốc tế, cùng với những khó khăn của đất nước ta, trên cương vị là Tổng Bí thư, với tư duy chính trị lão luyện, với trí tuệ sắc sảo, đồng chí Trường Chinh đã sớm nhận rõ xu thế phát triển của thời đại, nắm vững thực trạng của đất nước và yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, cùng Trung ương Đảng và Bộ Chính trị Đảng ta kịp thời đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Những quan điểm đổi mới tư duy mà đồng chí là người đầu tiên đề xuất đã trở thành nền tảng phương pháp luận cho việc nhận thức và giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn của công cuộc đổi mới.
Đồng chí Trường Chinh là người đầu tiên đưa ra phạm trù đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy kinh tế. Chỉ đổi mới tư duy kinh tế, đời sống nhân dân mới được cải thiện và nâng cao thì mới lấy lại niềm tin vào công cuộc đổi mới. Đổi mới tư duy kinh tế có hiệu quả sẽ tạo điều kiện cho đổi mới chính trị. Nhưng theo đồng chí, không phải chờ đổi mới tư duy kinh tế xong mới bắt đầu đổi mới hệ thống chính trị, mà phải tính toán bước đi thích hợp sao cho quá trình đổi mới từng bước hệ thống chính trị, không gây nên những biến động chính trị.
Chính trên ý nghĩa ấy, trong bài phát biểu tại Hội nghị Trung ương 8 khóa V, đồng chí Trường Chinh đã chỉ rõ mối quan hệ giữa quản lý kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị: "chuyển sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa, một vấn đề có tầm quan trọng quyết định, đó là tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ. Cần tiến hành ngay việc đổi mới và kiện toàn tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ, trước hết đối với những bộ phận liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh". Đồng chí cho rằng, chuyển sang cơ chế mới, nếu không làm như vậy thì đất nước khó vượt qua và thoát khỏi tình hình khó khăn gay gắt.
Như vậy, cuộc đấu tranh để xóa bỏ mô hình kinh tế hiện vật và cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp chuyển hẳn sang mô hình kinh tế mới, cơ chế quản lý mới không phải là quá trình đơn giản có thể giải quyết được trong một sớm một chiều. Đó là một quá trình đấu tranh với những quan điểm, cách nghĩ, cách làm cũ lỗi thời, bảo thủ, trì trệ với những quan điểm đổi mới và cách nghĩ, cách làm đúng đắn, sáng tạo. 
Trong một thời điểm bước ngoặt, tất yếu sẽ xuất hiện các nhân vật lịch sử có ý chí lớn, có tư duy nhạy bén và có trí tuệ lỗi lạc để giải quyết các vấn đề trọng đại mà cuộc sống đặt ra. Trường Chinh là con người như thế. Trong quá trình đổi mới tư duy, đồng chí chủ trương bắt đầu đổi mới từ kinh tế mà không bắt đầu từ đổi mới chính trị. Thực tế Việt Nam lúc này đòi hỏi đồng chí Trường chinh và các đồng chí của mình phải làm như vậy. 
Đồng chí Trường Chinh là một nhà lý luận nắm vững nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, luôn nắm vững quan điểm thực tiễn của chủ nghĩa duy vật biện chứng, từ thực tiễn mà tìm ra chân lý, góp phần xây dựng đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng. Đồng chí Trường Chinh là người có tinh thần “chí công vô tư”, luôn coi trọng chân lý, không hề chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa cá nhân, ra sức xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong tập thể lãnh đạo, đoàn kết cán bộ, đoàn kết nhân dân. Đồng chí là một người cộng sản mẫu mực, một nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng nước ta. Những cống hiến to lớn của đồng chí cho sự nghiệp của Đảng, của dân tộc mãi được trân trọng vẫn còn nguyên giá trị cho hôm nay và mai sau, đặc biệt là vào thời điểm toàn Đảng ta đang nỗ lực thực hiện nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế và nhiệm vụ then chốt là chỉnh đốn, xây dựng Đảng nhằm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ phát triển mới./.
---------------------------------------
(1) Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, P05-01-64
(2) Chính sách mới của Đảng, lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, P56-01-1096
(3) Trường Chinh: Tuyển tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr. 208
(4) Điếu văn do đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đọc tại lễ truy điệu đồng chí Trường Chinh, ngày 05-10-1988, xem Trường Chinh - một nhân cách lớn, một nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 16
(5) Biên bản tại Hội nghị bất thường Ban Chấp hành Trung ương, ngày 14-7-1986. Lưu tại kho Lưu trữ Trung ương Đảng P11-05-153
Lê Quang VĩnhPhó Chánh Văn phòng Trung ương Đảng
Nguồn lấy: Tạp Chí Cộng Sản

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm, làm việc tại tỉnh Nam Định

Cùng đi với Tổng Bí thư có các đồng chí: Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương; Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương; Nguyễn Văn Nên, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Trung ương; cùng nhiều đồng chí lãnh đạo các ban, bộ, ngành, cơ quan Trung ương.

Đồng chí Đoàn Hồng Phong, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Nam Định đã báo cáo Tổng Bí thư những kết quả nổi bật của tỉnh trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, công tác xây dựng Đảng năm 2016 và phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm 2017.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, các nghị quyết của Trung ương và Nghị quyết Đại hội XIX Đại hội Đảng bộ tỉnh, Tỉnh ủy Nam Định đã ban hành 5 nghị quyết chuyên đề nhằm cụ thể hóa mục tiêu xây dựng tỉnh nông thôn mới trước năm 2020, tạo bước phát triển đột phá về kinh tế - xã hội. Trong đó, Nam Định tập trung cải cách hành chính, thu hút đầu tư; phát triển thành phố Nam Định thành trung tâm vùng Nam đồng bằng sông Hồng; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn phát triển mới.

Năm 2017, Nam Định phấn đấu hoàn thành ở mức cao nhất các nhiệm vụ, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, tạo đà thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX. Tỉnh tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình hành động thực hiện, đưa Nghị quyết Đại hội XII và các Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống; triển khai đồng bộ, toàn diện các nhóm nhiệm vụ, giải pháp về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII và Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Tỉnh phấn đấu nâng tổng số xã nông thôn mới lên 183 xã, thị trấn (88%), đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án, công trình trọng điểm như cầu Thịnh Long, Nhà máy nhiệt điện Hải Hậu I, Khu công nghiệp dệt may Rạng Đông…; thúc đẩy mạnh mẽ quá trình khởi nghiệp, hỗ trợ nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, tạo thuận lợi tối đa cho sản xuất kinh doanh, giải quyết việc làm cho người lao động, tăng thu cho ngân sách; tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, thu hút đầu tư vào nông nghiệp; phấn đấu đến năm 2020 tỷ lệ dân số nông thôn được cung cấp nước sạch đạt trên 95%; nâng tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 78,5% dân số.

Phát biểu với cán bộ chủ chốt của tỉnh, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, Nam Định có vị trí chiến lược quan trọng ở đồng bằng sông Hồng, là vùng “địa linh nhân kiệt”, có truyền thống văn hóa, lịch sử, khoa bảng, truyền thống yêu nước cách mạng kiên cường, nhân dân cần cù lao động sáng tạo.

Nam Định cũng có quá trình phát triển lâu dài với nhiều phong trào, điển hình tiên tiến, đóng vai trò quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, cả trong giai đoạn kháng chiến cũng như xây dựng, phát triển đất nước. Không phải ngẫu nhiên mà Nam Định sản sinh ra nhiều bậc sỹ phu yêu nước, nhà trí thức, nhà lãnh đạo nổi tiếng mà tiêu biểu mẫu mực là Tổng Bí thư Trường Chinh.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vui mừng nhận thấy, trong những năm đổi mới, Nam Định không ngừng nỗ lực phấn đấu vươn lên, bộ mặt nông thôn, thành thị có nhiều đổi mới. Năm 2016, trong điều kiện khó khăn chung, Nam Định đã thực hiện đạt và vượt 20/22 chỉ tiêu chủ yếu về kinh tế - xã hội, tổng sản phẩm GRDP của tỉnh tăng 7%, cao nhất kể từ năm 2011.

Đến nay Nam Định có tổng số 152 xã đạt chuẩn nông thôn mới (đạt 73%). Chỉ số năng lực cạnh tranh tăng nhanh, 16 bậc/năm. Nhiều dự án có tầm chiến lược được khởi động. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội tiếp tục phát triển toàn diện, năm 2016 là năm thứ 22 liên tiếp Nam Định được tặng Cờ thi đua “Đơn vị tiêu biểu xuất sắc” trong tốp dẫn đầu toàn quốc về thành tích giáo dục - đào tạo. Nhiều chỉ tiêu đạt cao hơn cả nước, Nam Định thực hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương.

Tổng Bí thư cũng lưu ý, so với tiềm năng, điều kiện tự nhiên, chính trị, truyền thống văn hóa, lịch sử… của Nam Định thì những kết quả đạt được chưa tương xứng, chưa đáp ứng yêu cầu, mong muốn của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong tỉnh. Thu nhập bình quân đầu người hiện mới đạt 42 triệu đồng, thấp hơn mức bình quân chung của cả nước. Thu ngân sách chỉ đáp ứng được khoảng 30% tổng số chi của tỉnh.

Tổng Bí thư đề nghị Nam Định cần phân tích, làm rõ nguyên nhân vì sao với nhiều tiềm năng, lợi thế như vậy mà các bước phát triển của Nam Định còn hạn chế so với các địa phương khác? Đây là điều rất đáng suy nghĩ. Nam Định cần quyết liệt, năng động, quyết tâm cao hơn nữa để phát triển đi lên, không cam chịu thua kém các tỉnh khác trong khu vực.

Về hướng phát triển thời gian tới, Tổng Bí thư gợi mở, với chỉ số năng lực cạnh tranh được cải thiện đáng kể, Nam Định cần chú trọng thu hút đầu tư, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Trong nông nghiệp cần tăng cường hợp tác, liên kết 4 nhà, nâng mức hạn điền, xây dựng cánh đồng mẫu lớn, tích tụ ruộng đất, ứng dụng công nghệ cao, phát triển công nghiệp chế biến… Trong quá trình đó cần chú ý phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

Tổng Bí thư chỉ rõ muốn phát triển kinh tế phải thực hiện tốt các chính sách xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội, “dân là vạn đại”, đồng thời chăm lo làm tốt công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng, công tác tổ chức, đặc biệt là công tác cán bộ. Nếu Đảng không vững mạnh, không lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt đúng đắn, nội bộ không đoàn kết thống nhất chặt chẽ, ý thức kỷ luật không nghiêm thì sẽ ảnh hưởng việc thực hiện các nhiệm vụ khác. Vậy nên xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, công tác cán bộ là then chốt của then chốt, bố trí cán bộ phải đúng, phải chặt… thiết thực vì sự phát triển của quê hương Nam Định.

Tổng Bí thư lưu ý, nhân kỷ niệm 110 năm ngày sinh đồng chí Trường Chinh, cần khơi dậy truyền thống, niềm tự hào của nhân dân Nam Định, đây là nguồn lực tinh thần, không chỉ có vật chất, cơ chế chính sách…; cần khơi dậy, giáo dục truyền thống yêu nước cách mạng, lịch sử văn hóa trong thanh niên, nhân dân.

Tổng Bí thư đã trả lời từng kiến nghị, đề xuất của Nam Định; ghi nhận những kiến nghị xác đáng xuất phát từ thực tiễn phát triển của địa phương để có ý kiến với Chính phủ, các bộ, ngành liên quan, nhằm tạo điều kiện về nguồn lực, cơ chế chính sách, giúp Nam Định ngày càng phát triển, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.

Buổi chiều, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đến thăm ngôi nhà số 7 phố Bến Ngự, thành phố Nam Định, nơi từng chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước, cơ sở liên lạc, tập trung để đưa thanh niên yêu nước xuất dương đi dự các lớp huấn luyện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đào tạo cán bộ cách mạng cho cả nước.

Tiếp đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã về dâng hương tại Nhà lưu niệm Tổng Bí thư Trường Chinh ở làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định - quê hương đồng chí Trường Chinh; dâng hương, dâng hoa tại tượng đài Tổng Bí thư Trường Chinh ở trung tâm thị trấn Xuân Trường.

Lễ dâng hương do Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Nam Định tổ chức và đây là một trong những hoạt động kỷ niệm 110 năm ngày sinh Tổng Bí thư Trường Chinh (09-02-1907 - 09-02-2017).

Tham dự buổi lễ có nhiều Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, lãnh đạo nhiều ban, bộ, ngành, cơ quan Trung ương, tỉnh Nam Định, huyện Xuân Trường, xã Xuân Hồng và đông đảo bà con nhân dân địa phương.

Chiều cùng ngày, tại thành phố Nam Định, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đến thăm và nói chuyện với cán bộ, giảng viên, học viên, nhân viên Trường Chính trị Trường Chinh.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh tầm quan trọng và ý nghĩa sâu sắc của việc học tập, nghiên cứu lý luận, đặc biệt là cán bộ, đảng viên càng phải học tập lý luận. Như V.I. Lê-nin từng nói: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”.

Còn Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”.

Trường Chính trị Trường Chinh được thành lập khá sớm, trải qua hơn 60 năm xây dựng, trưởng thành, trường đã luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng kiến thức lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ của tỉnh. Đặc biệt từ năm 1999 đến nay, trường vinh dự mang tên Tổng Bí thư Trường Chinh, nhà lãnh đạo kiệt xuất của Đảng, nhà lý luận, nhà tư tưởng, nhà báo, nhà thơ, nhà hoạt động cách mạng… Ở cương vị nào, đồng chí Trường Chinh cũng nổi bật với tư cách là nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng, người con ưu tú của quê hương Nam Định.

Đánh giá cao những thành tích mà Trường Chính trị Trường Chinh đã đạt được trong công tác giáo dục lý luận chính trị, Tổng Bí thư mong muốn nhà trường tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang, làm tốt công tác giáo dục đào tạo cán bộ, đảng viên, gắn lý luận với thực tiễn.

Trong điều kiện kinh tế thị trường, không ít cán bộ, đảng viên chưa chú trọng việc học tập lý luận, đặc biệt là chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng Việt Nam.

Tổng Bí thư nhắc nhở, việc học tập lý luận không được máy móc, giáo điều, mà phải vận dụng sáng tạo vào điều kiện thực tiễn Việt Nam. Tổng Bí thư chúc đội ngũ cán bộ, giảng viên, nhân viên Trường chính trị Trường Chinh không ngừng nỗ lực rèn luyện, phấn đấu nâng cao trình độ, kiến thức, hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, xứng đáng với ngôi trường mang tên Tổng Bí thư Trường Chính./.
Nguồn Tạp Chí Cộng Sản,BTV (tổng hợp từ TTXVN)