Hiển thị các bài đăng có nhãn Chính Trị. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Chính Trị. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 21 tháng 5, 2017

LÝ LỊCH CỦA TÊN PHẢN ĐỘNG HOÀNG ĐỨC BÌNH

Ếch
Hoàng Đức Bình
Sinh ngày 10/2/1983,
Quê quán tại xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An
Bị bắt về tội “Chống người thi hành công vụ; lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”, quy định tại Điều 257, 258 – Bộ luật Hình sự để điều tra, xử lý theo pháp luật.

 Hoàng Đức Bình thường xuyên đăng tải, chia sẻ trên Facebook cá nhân những thông tin, tài liệu tuyên truyền nói xấu chế độ, cổ vũ phong trào đa nguyên, đa đảng. Lợi dụng sự cố môi trường biển miền Trung, với tư cách Phó chủ tịch “Phong trào Lao động Việt”, Hoàng Đức Bình đã xúc tiến, thành lập “Hiệp hội ngư dân miền Trung” với ý đồ tạo dựng tổ chức ngoại vi, tập hợp lực lượng, lôi kéo giáo dân, ngư dân miền Trung tham gia vào tổ chức; tìm chọn “hạt nhân” kích động biểu tình, phá rối an ninh trật tự.
Hoàng Đức Bình đã nhiều lần cùng một số linh mục cực đoan như Đặng Hữu Nam, Nguyễn Đình Thục lôi kéo giáo dân vào tòa án nhân dân TX Kỳ Anh để nộp đơn kiện Formosa, nhưng thực chất là gây rối, làm ảnh hưởng an ninh trật tự nơi công cộng, đối tượng Bình đã mua loa công suất lớn trang bị cho các cuộc gây rối nơi công cộng, quay phim, phát tán trên mạng, bóp méo sự thật để kích động người dân chống đối chính quyền....

Điển hình, ngày 2/4/2017, Hoàng Đức Bình và Bạch Hồng Quyền (sinh ngày 17/8/1989, quê thôn Cói, xã An Đỗ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, đối tượng hiện đang bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Tĩnh công bố quyết định truy nã toàn quốc về tội gây rối trật tự công cộng), đã vào kích động người dân giáo xứ Trung Nghĩa (Thạch Bằng, Lộc Hà, Hà Tĩnh) bao vây, tấn công tổ tuần tra của Công an huyện Lộc Hà và Công an xã Thạch Bằng, làm 1 đồng chí công an bị thương; bao vây, đập phá tài sản nhà trưởng công an xã Thạch Bằng, kéo lên trụ sở Công an huyện, UBND huyện Lộc Hà gây mất trật tự an ninh.

ĐÁNH DẬP ĐẦU RẮN CHỦ THÌ PHẢI BẮT BẰNG ĐƯỢC NGUYỄN ĐÌNH THỤC

Đánh Rắn phải đánh dập đầu.
Việc, bắt tên cầm đầu đội lốt linh mục(Lm) mang tên Nguyễn Đình Thục là một việc làm cần thiết và rất cấp bách ngay lúc này. Đó là cách, “Đánh rắn dập đầu”được hiểu rộng ra có nghĩa là, phải tiêu diệt kẻ cầm đầu, đầu têu trong các vụ biểu tình trá hình gây bạo loạn ở Nghệ An và tỉnh Hà Tĩnh, Tuy nhiên, chính quyền Nghệ An đã khồng làm như vậy, mà chỉ “Đánh Rắn giữa lưng” như thời gian vừa qua là không thể chấp nhận được. 
 Rõ ràng, Báo, Đài Truyền thanh, Truyền hình tỉnh Nghệ An suốt ngày phát sóng ra rả luận tội Lm Nguyễn Đình Thục, thậm chí cả Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam (VOV), Đài Truyền hình Trung ương VTV1 cũng phát nhiều lần trong chương trình thời sự 19h, tố cáo kẻ cầm đầu làm loạn ở xứ miền Trung, chỉ đích danh Lm Nguyễn Đình Thục, kẻ khoác áo Thầy tu nhưng “Bụng một bồ dao găm”. Chính y, một trong những kẻ cầm đầu ngông cuồng nhất, hiếu chiến nhất, nguy hiểm nhất trong đám chủ chăn áo choàng đen, mà chúng ta đã từng thấy trong thời gian vừa qua.
Tố cáo, luận tội như vậy. Nhưng chính quyền tỉnh Nghệ An lại không bắt Nguyễn Đình Thục để “Đánh rắn dập đầu”, triệt hạ ngay từ trong trứng nước những âm mưu phản loạn của Nguyễn Đình Thục, mà lại bắt những kẻ được cho là “Tép riu” như Bạch Hồng Quyền và Hoàng Đức Bình, động thái của chính quyền tỉnh Nghệ An dường như không giúp được vãn hồi An ninh, trật tự và an toàn xã hội của tỉnh nhà, Ngược lại, chỉ càng thêm rối loạn như chúng ta đã thấy vào ngày 15/5 vừa qua. Vì thế, đã gây ra những hiệu ứng tiêu cực đối với người dân công giáo, tác dụng ngược làm cho việc thực thi chấp pháp ngày càng thêm khó khăn. 
Hội chứng nhờn luật, coi thường kỷ cương phép nước ngày càng rõ. Vì thế, những cuộc biểu tình phản loạn chống chính quyền những ngày qua, không những không hề giảm, mà ngày càng gia tăng tần suất và cả cường độ, bởi sự hung hãn của đám giáo dân cực đoan, được sự cổ vũ, kích động của Nguyễn Đình Thục trong các vụ bạo loạn ngày càng trở nên nguy hiểm, khi chúng tấn công cơ quan công quyền và chống người thi hành công vụ, chặn xe quốc lộ 1A, hạ Cờ Tổ quốc treo Cờ Vatican, thậm chí cả Cờ ba sọc đỏ của chế độ Ngụy VNCH ….. Rõ ràng, kẻ thù của chúng ta đang lấn tới, chúng coi thường luật pháp, bằng hành vi đối đầu trực diện với chính quyền mà không hề sợ hãi.
Có người nói, có lẽ vì yếu tố nhạy cảm về “Vấn đề” tôn giáo, “Uy tín Quốc gia” trên trường quốc tế, nên chỉ “Đánh rắn giữa lưng” để “Hù dọa” mà Không dám “Đánh Rắn dập đầu”. Đáng tiếc thay, Chính vì cái gọi, “Yếu tố nhạy cảm” này, mà chúng ta không chuyên chính với kẻ thù, đang để “Nhân quyền cao hơn chủ quyền thiêng liêng của đất nước”. Tước đi quyền của một đất nước có chủ quyền. Vô hình chung, đã tự biến chính quyền thành “Nhu nhược” để kẻ thù lấn tới, được “Đằng chân chúng lấn lên đằng đầu” hết lần này đến lần khác.
Hãy, nhớ câu nói bất hủ này của Chủ tịch Cu Ba Phiđencátstro khi nói về chuyên chính với kẻ thù (đại ý): “Bạn lùi một bước, chúng tiến hai bước, bạn lùi hai bước chúng tiến ba bước. Đến khi bạn không còn đường lùi chúng tiến tới cắt cổ bạn. Thế nên, bạn phải cắt cổ chúng trước, trước khi chúng cắt cổ bạn”.
Vì vậy, để đảm bảo An ninh Quốc gia và tồn vong của chế độ này. Nhân dân khẩn thiết đề nghị chính quyền, Không thể nhân nhượng được mãi. Phải bắt ngay những kẻ cầm đầu công giáo miền Trung như: Nguyễn Đình Thục, Đặng Hữu Nam….. Đó, cũng là cách “Đánh Rắn dập đầu” để chúng không có cơ hội kích động làm loạn được nữa.
Ngày 16 tháng 5 năm 2017
Nguyễn kim Khanh

Phải bắt ngay tên Nguyễn Đình Thục đó cũng là cách "đánh rắn dập đầu"

Thứ Năm, 9 tháng 2, 2017

Phản động lại tung tin thất thiệt về đổi tiền

Mới đầu xuân mới, lũ giòi bọ ba que lại tiếp tục tung tin thất thiệt, rằng Việt Nam sẽ đổi tiền vào ngày 6/2/2017 ngay sau tết Đinh Dậu. Một loạt trang mạng như “Thông tin hai chiều”, “Việt Nam News” đã đăng bài “TIN NÓNG: Việt Nam công bố mẫu tiền mới sẽ được đổi ngày 6/2/2017 ngay sau tết Đinh Dậu (Video)”. Rất tiếc, đã có một số người tiếp tay cho đám bất lương bằng cách share bài, tung lên mạng.
Thật ra, chiều tung tin thất thiệt về đổi tiền không mới và thể hiện sự bất lực của đám vong nô trước sự phát triển của đất nước, nhưng ít nhiều sẽ gây thiệt hại. Nhẹ thì nghi ngờ, nặng hơn chút thì rút tiền khỏi ngân hàng và tâm lý hoang mang là không tránh khỏi.
1-1
Bài viết xuyên tạc đó khẳng định “Việt Nam công bố mẫu tiền mới sẽ được đổi ngày 6/2/2017 ngay sau tết Đinh Dậu” và lập luận cực ngây ngô về lý do đổi tiền: “Bằng chứng đang hiển hiện là bất chấp thị trường bất động sản từ Bắc chí Nam vẫn tồn kho vài ba chục ngàn căn hộ cùng đất nền bao la, vẫn xuất hiện một dòng tiền chảy vào khu vực này trong những tháng qua. Bằng chứng rõ ràng hơn là xu hướng người dân đã rút tiền gửi tiết kiệm để mua đất đang tăng dần với lý do hết sức đơn giản “Ôm đất thì đất còn đó, chứ giữ tiền thì chẳng biết còn lại được bao nhiêu”, rồi dẫn chứng cực ất ơ như kẻ tâm thần phân liệt. Xin dẫn nguyên văn:
Một người bạn inbox yêu cầu dấu tên và FB. (t) là mẫu tự đầu tên của bạn ấy xác nhận tin là sự thật:
tôi có coi clip về vụ đổi tiền của bạn trong clip có đề cập đến đoạn người Trung Cộng hiện vô đây rất nhiều
t ở khu phố Tây đường Bùi Viện thì thấy đúng thật là những ngày tết gần đây những lượt khách du lịch ng TQ vô đây rất nhiều so với tết mọi năm thì đa phần là nhân viên làm việc về visa du lịch ngta nghỉ lễ nên hầu hết khách du lịch người Tây họ về nước chỉ có tết năm nay t cảm thấy có điều gì bất ổn những ngày cận tết mà hầu hết là khách du lịch TQ vô đây rất nhiều
t chỉ xác nhận hiện tại là lượng khách du lịch ng TQ hiện đang ở khu phố Tây nhiều hơn mọi năm trong khi khách du lịch Tây Âu thì họ đa phần đểu về nước
t coi xong clip về vụ đổi tiền thấy rất lo còn về thông tin khách du lịch TQ nhiều hơn bất thường mà t vừa xác nhận
t xin được giấu tên cũng như FB b đừng nêu ra”
Thật ra, đây cũng là tin vịt được xào xáo lại từ bài “Ngân Hàng NN công bố mẫu tiền mới in từ TQ đã chuyển hết về VN để phục vụ việc đổi tiền”, được đăng trên trang Tin Tức Hàng Ngày hô 5/12/2016. Chỉ có điều, não trạng của kẻ xào xáo ở tầm trẻ trâu hủi nô.
Tổ sư, làm cách mạng kiểu ba que thì có mà bốc cứt ăn vã. Tung tin “cách mạng” mà bịa đặt ngu ngốc như tác giả bài viết thì các anh chị bị đá đít là điều dễ hiểu.
Nhắc lại, hôm 5/12/2016 trang Tin Tức Hàng Ngày đăng bài “Ngân Hàng NN công bố mẫu tiền mới in từ TQ đã chuyển hết về VN để phục vụ việc đổi tiền” với nội dung cho là Việt Nam sắp đổi tiền do lạm phát. Bài viết còn cho biết, lượng tiền mới đã in xong ở Trung Quốc, đang chuẩn chuyển về Việt Nam, kèm theo mẫu tiền như hình dưới đây:
1459766843-ngan-hang-nha-nuoc-phat-hanh-tien-luu-niem-100-dong1459766843-ngan-hang-nha-nuoc-phat-hanh-tien-luu-niem-100-dong-1
Ngay sau khi bài viết kèm những hình ảnh “đồng tiền mới” được đăng, các “tinh hoa dân chủ” trong nước ngay lập tức nhảy vào chia sẻ và bình luận như đúng rồi.
Xem hình đồng tiền mà các anh chị dân chủ post lên làm minh chứng cho tờ “tiền mới được in từ Trung Quốc”, người hiểu biết sẽ phì cười vì biết kẻ viết bài là loại suy nghĩ bằng lỗ đít. Đơn giản, đây là đồng tiền lưu niệm mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành để kỷ niệm 65 năm thành lập Ngân hàng Nhà nước (6/5/1951 – 6/5/2016) và đó là loại tiền không có giá trị thanh toán, lưu thông.
Tờ tiền lưu niệm sẽ được phát hành ngày 6/5/2016 nhằm ghi nhận bước phát triển của ngành Ngân hàng, đồng thời tuyên truyền, quảng bá hình ảnh đất nước, lịch sử dân tộc và đồng tiền Việt Nam với đông đảo người dân và bạn bè quốc tế. xem hình dưới do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cung cấp:
Tờ tiền lưu niệm 100 đồng có kích thước to hơn các tờ tiền polymer thông thường với chất liệu cotton màu đỏ. Mặt trước in hình quốc huy, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, dòng chữ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, mệnh giá 100 đồng in đậm với logo 65 năm kỷ niệm thành lập Ngân hàng Nhà nước. Mặt sau in hình trụ sở Ngân hàng Nhà nước.
Được biết tờ tiền lưu niệm 100 đồng sẽ có giá bán 20.000 đồng/tờ (loại tờ rời) và 25.000 đồng/tờ (loại được bọc trong phong bao, kèm chú thích song ngữ Việt – Anh). Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng Thương mại sẽ tổ chức bán 2 loại tiền rộng rãi trên toàn hệ thống để phục vụ các cá nhân, tổ chức có nhu cầu. Đây là lần thứ 2 Ngân hàng Nhà nước phát hành tiền lưu niệm. Đợt phát hành lần thứ nhất là loại tiền lưu niệm mệnh giá 50 đồng kỷ niệm 50 năm thành lập Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (1951 – 2001).
Sơ lược như vậy để thấy não trạng dân chủ giòi bọ của đám lưu manh ba que cũng như đám dân chủ trĩ mồm ở trong nước mạt hạng đến thế nào.

Nguồn: Việt Nam Thời Báo, Vũ Khánh Sơn

Thứ Ba, 7 tháng 2, 2017

Tổng Bí thư Trường Chinh - Một nhân cách lớn của Cách mạng Việt Nam

Tổng Bí thư Trường Chinh - Một nhân cách lớn của Cách mạng Việt Nam

Nhân kỷ niệm 110 năm Ngày sinh Tổng Bí thư Trường Chinh (09/2/1907 - 09/2/2017), Chủ tịch nước Trần Đại Quang có bài viết “Tổng Bí thư Trường Chinh - Nhà lý luận xuất sắc, nhà lãnh đạo kiệt xuất, một nhân cách lớn của Cách mạng Việt Nam”.

Blog Góc nhìn xã hội trân trọng giới thiệu bài viết của Chủ tịch nước Trần Đại Quang.


Đồng chí Trường Chinh tiếp đoàn Đại biểu Quốc hội Romania sang thăm chính thức Việt Nam, ngày 27/2/1978. Ảnh: Thế Trung/TTXVN


Đồng chí Trường Chinh tiếp đoàn Đại biểu Quốc hội Romania sang thăm chính thức Việt Nam, ngày 27/2/1978

TỔNG BÍ THƯ TRƯỜNG CHINH - NHÀ LÝ LUẬN XUẤT SẮC, NHÀ LÃNH ĐẠO KIỆT XUẤT, MỘT NHÂN CÁCH LỚN CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
GS. TS. Trần Đại Quang
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam
Tổng Bí thư Trường Chinh, người cộng sản kiên cường mẫu mực, nhà lý luận tài năng, nhà lãnh đạo kiệt xuất, một trong những học trò xuất sắc và cộng sự gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, tấm gương sáng về tính nguyên tắc và tổ chức kỷ luật, một trí tuệ lớn của cách mạng Việt Nam, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tám mươi mốt tuổi đời, sáu mươi ba năm hoạt động cách mạng liên tục, sôi nổi và phong phú của đồng chí Trường Chinh gắn liền với những chặng đường đấu tranh vô cùng gian khổ, nhưng rất đỗi tự hào của nhân dân ta. Hơn bốn mươi sáu năm giữ các trọng trách Quyền Tổng Bí thư, Tổng Bí thư, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Đồng chí đã cùng tập thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào cách mạng Việt Nam; xây dựng và lãnh đạo thực hiện thắng lợi đường lối, chiến lược, sách lược với phương pháp và nghệ thuật chỉ đạo linh hoạt, lập nên những kỳ tích vẻ vang trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tên tuổi và sự nghiệp của Đồng chí mãi mãi được khắc ghi vào lịch sử vẻ vang của Đảng, của dân tộc, được thể hiện rõ nhất trong những bước ngoặt lịch sử của đất nước đòi hỏi có sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược.
Ngay từ năm 1930, khi bị giam cầm trong các nhà tù thực dân, đồng chí Trường Chinh luôn thể hiện bản lĩnh kiên trung, bất khuất trước đòn roi tàn bạo của kẻ thù, biến nhà tù thành trường học lý luận để học tập văn hóa, chính trị, trau dồi lý tưởng cách mạng, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Biến cái rủi thành cái may, các đồng chí ta đã lợi dụng những ngày tháng ở tù để hội họp và học tập lý luận. Một lần nữa, việc đó lại chứng tỏ rằng chính sách khủng bố cực kỳ dã man của kẻ thù chẳng những không ngăn trở được bước tiến của cách mạng, mà trái lại nó đã trở nên một thứ lửa thử vàng, nó rèn luyện cho người cách mạng càng thêm cứng rắn” [1].
Từ năm 1939, trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế có những chuyển biến hết sức nhanh chóng, Ban lãnh đạo Đảng chưa lập lại được, vượt qua sự truy lùng gắt gao của kẻ thù, đồng chí Trường Chinh đã có công lao to lớn trong việc tổ chức lại Ban Chấp hành Trung ương và được bầu làm Quyền Tổng Bí thư tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 11-1940) và sau đó làm Tổng Bí thư tại Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 5-1941). Dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và đồng chí Trường Chinh là người khởi thảo văn kiện, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết lịch sử, hoàn chỉnh chủ trương cách mạng giải phóng dân tộc, phát triển lý luận về cách mạng vô sản ở một nước thuộc địa, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc - giai cấp, dân tộc - quốc tế, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết, đánh dấu sự chuyển hướng chiến lược rất cơ bản của cách mạng Việt Nam. Hội nghị đã đề ra chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các tầng lớp yêu nước trong Mặt trận Việt Minh, xây dựng căn cứ địa, chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Sau Hội nghị, trên cương vị Tổng Bí thư, đồng chí Trường Chinh đã cùng Trung ương Đảng chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết, mở rộng Mặt trận Việt Minh, củng cố các an toàn khu (ATK), tổ chức lực lượng vũ trang và thành lập khu giải phóng.
Thời kỳ này, cùng với việc lãnh đạo củng cố toàn diện phong trào cách mạng, với các tác phẩm Đề cương về văn hóa Việt Nam (năm 1943), Chủ nghĩa Mác về văn hóa Việt Nam (năm 1943), đồng chí Trường Chinh đã có những đóng góp to lớn trong việc hình thành cơ sở lý luận cho việc xây dựng một nền văn hóa, văn nghệ cách mạng Việt Nam theo phương châm dân tộc, khoa học, đại chúng và lãnh đạo tổ chức thực hiện đường lối văn hóa của Đảng. Đồng chí còn chỉ đạo thành lập và trực tiếp viết bài cho Tạp chí Cộng sản - Cơ quan lý luận chính trị của Trung ương Đảng; Báo Cứu quốc - Cơ quan ngôn luận của Tổng bộ Việt Minh; Báo Cờ Giải phóng - Cơ quan tuyên truyền, cổ động của Trung ương Đảng... nhằm truyền đạt đến cán bộ, đảng viên, nhân dân về những biến đổi mau chóng của tình hình và đường lối, chủ trương của Đảng, Mặt trận Việt Minh; vận động, tổ chức các tầng lớp nhân dân vùng lên đấu tranh chống thực dân Pháp và phát xít Nhật...
Tại Hội nghị mở rộng của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (ngày 9-3-1945), với tư duy khoa học, tầm nhìn chiến lược, nhạy bén, đồng chí Trường Chinh cùng Ban Thường vụ Trung ương đã nhận định, phân tích chính xác tình hình, dự báo đúng diễn biến thời cuộc và ban hành Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, Chỉ thị “Phá kho thóc của Nhật để chia cho dân đói”; kịp thời chuyển hướng khẩu hiệu và phương pháp đấu tranh, nhanh chóng dấy lên cao trào chống phát xít Nhật cứu nước. Đồng chí đã chỉ đạo thực hiện thành công một chủ trương sáng tạo độc đáo của Đảng ta là tiến hành khởi nghĩa từng phần ở nhiều nơi, thành lập các khu giải phóng, nắm bắt thời cơ, tiến tới Tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi vĩ đại trong Cách mạng Tháng Tám lịch sử.
Sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền cách mạng non trẻ của ta ở thế “ngàn cân treo sợi tóc”, đồng chí Trường Chinh là một trong những cộng sự gần gũi và tin cậy của Bác Hồ, đã cùng tập thể Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giữ vững chính quyền nhân dân, tranh thủ thời cơ, chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài, toàn dân, toàn diện chống thực dân Pháp xâm lược. Tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” của đồng chí Trường Chinh đã góp phần định hướng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta kiên cường kháng chiến, vượt lên mọi gian khổ, hy sinh và vững tin vào thắng lợi cuối cùng.
Năm 1951, trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có những biến chuyển mới có lợi cho cách mạng, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Trường Chinh đã cùng Trung ương Đảng tập trung công sức, trí tuệ chuẩn bị tốt Đại hội lần thứ II của Đảng, nhất là chuẩn bị các văn kiện quan trọng. Giá trị lý luận và thực tiễn của các văn kiện Đại hội cũng như vai trò lãnh đạo, chỉ đạo chuẩn bị tổ chức Đại hội của Tổng Bí thư Trường Chinh là rất to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Thành công của Đại hội đánh dấu bước phát triển vượt bậc và toàn diện về đường lối cách mạng và kháng chiến trong giai đoạn mới. Tại Đại hội này, đồng chí Trường Chinh tiếp tục được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng; cùng Ban Chấp hành Trung ương Đảng bổ sung, hoàn chỉnh lý luận về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, kịp thời giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi hoàn toàn, mở ra một thời kỳ phát triển mới của cách mạng Việt Nam.
Trong thời kỳ đất nước ta thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ miền Bắc và giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, trên cương vị Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đồng chí Trường Chinh đã cùng Ban Chấp hành Trung ương Đảng lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Sau ngày đất nước thống nhất, trên các cương vị Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Đồng chí đã có những đóng góp to lớn trong việc xây dựng nhà nước kiểu mới, một nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; tham gia chỉ đạo xây dựng nhiều đạo luật quan trọng.
Thời kỳ trước đổi mới, trong bối cảnh cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội diễn ra ngày càng trầm trọng, sản xuất trì trệ, lạm phát phi mã, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, đồng chí Trường Chinh là một trong những nhà lãnh đạo kiên trì khảo nghiệm thực tiễn, chỉ đạo từng bước thực hiện đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, đặt nền móng cho việc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Tại Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa V), trên cơ sở phân tích, làm rõ những sai lầm, khuyết điểm trong việc duy trì quá lâu cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, đồng chí Trường Chinh đã rút ra kết luận: “Chúng ta phải triệt để xóa bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Song về sách lược, trong mỗi bước đi cần có tính toán, cân nhắc thận trọng” [2].
Sau khi đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn qua đời, ngày 14-7-1986, tại phiên họp đặc biệt của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Trường Chinh đã được bầu làm Tổng Bí thư. Với tư duy lý luận sắc sảo, nhạy bén, bám sát thực tiễn, sâu sát tình hình ở địa phương, cơ sở, Đồng chí đã sớm nhận rõ được xu thế của thời đại, thực trạng của đất nước và nguyện vọng của nhân dân, dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, chỉ đạo toàn Đảng “phải đổi mới tư duy, thay đổi cách nghĩ, cách làm, dám thừa nhận và thay đổi những quyết định sai lầm trước đây của chính mình, dám dũng cảm xử lý những việc phức tạp” [3].
Trong quá trình trực tiếp chỉ đạo chuẩn bị các văn kiện Đại hội lần thứ VI của Đảng, Đồng chí nhấn mạnh: “Cần thấy rõ tính chất phức tạp, khó khăn của quá trình đổi mới. Đây là cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, cái tiến bộ và cái lạc hậu. Cái khó nhất là ở chỗ: Đây là cuộc đấu tranh trong nội bộ Đảng và cơ quan nhà nước, đấu tranh giữa những người đồng chí, đấu tranh với chính bản thân mình” [4].
Đồng chí Trường Chinh đặc biệt quan tâm công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh khi cho rằng: “Làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ quan trọng nhất trong công tác xây dựng Đảng, chỉ có như vậy thì Đảng ta mới đủ sức lãnh đạo cách mạng nước ta trong thời gian tới. Khôi phục, giữ vững và nâng cao tính chiến đấu của Đảng là yêu cầu bức thiết hiện nay. Công tác cán bộ phải gắn liền với công tác xây dựng Đảng” [5].
Tại Đại hội lần thứ VI của Đảng, đồng chí Trường Chinh đã trình bày Báo cáo chính trị có ý nghĩa lịch sử, trong đó nêu rõ: “Thái độ của Đảng ta trong việc đánh giá tình hình là nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” [6]; khẳng định: “Bài học lớn rút ra từ những năm qua là trong điều kiện Đảng cầm quyền, phải đặc biệt chăm lo củng cố sự liên hệ giữa Đảng và nhân dân; tiến hành thường xuyên cuộc đấu tranh ngăn ngừa và khắc phục chủ nghĩa quan liêu. Mỗi đảng viên cộng sản phải thật sự vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của nhân dân lao động, phải khơi dậy được sự đồng tình, hưởng ứng của quần chúng” [7]. Đồng chí chỉ rõ: “Phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, chúng ta mới có thể vượt qua khó khăn, thực hiện được những mục tiêu do Đại hội lần thứ VI đề ra... Điều quan trọng là phải coi trọng công tác lý luận nhằm cung cấp nội dung khoa học cho việc đổi mới tư duy” [8].
Đại hội lần thứ VI của Đảng có ý nghĩa trọng đại, đánh dấu bước ngoặt mang tính đột phá chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc, được dư luận trong nước và quốc tế đánh giá cao, trong đó đồng chí Trường Chinh với trọng trách Tổng Bí thư, là kiến trúc sư của sự nghiệp đổi mới, đã có những đóng góp to lớn trong việc chuẩn bị văn kiện và tổ chức thành công Đại hội.
Sau Đại hội lần thứ VI của Đảng, trên cương vị Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Bộ Chính trị cử làm Trưởng Tiểu ban soạn thảo Cương lĩnh, Đồng chí đã dồn hết tâm trí và sức lực, tích cực đóng góp xây dựng Cương lĩnh, Chiến lược kinh tế - xã hội và chuẩn bị nội dung cho Đại hội lần thứ VII của Đảng.
Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, đồng chí Trường Chinh đã nêu tấm gương sáng về lối sống trong sạch, lành mạnh, giản dị, khiêm tốn, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, luôn sâu sát thực tiễn, gần gũi với nhân dân, được nhân dân tin yêu, đùm bọc, kính trọng. Đồng chí là một nhà lãnh đạo mẫu mực của Đảng, Nhà nước về tính nghiêm túc, thái độ tôn trọng nguyên tắc làm việc, chu đáo, cẩn thận đến từng chi tiết; đặc biệt để lại dấu son chói lọi về thái độ tự phê bình và phê bình.
Kỷ niệm 110 năm Ngày sinh Tổng Bí thư Trường Chinh là dịp để chúng ta ôn lại, tưởng nhớ và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với những công lao, đóng góp to lớn của Đồng chí với cách mạng Việt Nam. Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều nhân tố bất trắc, khó lường, trong nước còn khó khăn, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đẩy mạnh đồng bộ, toàn diện công cuộc đổi mới, thì lời phát biểu của Tổng Bí thư Trường Chinh trong quá trình chuẩn bị Đại hội VI: “Đối với nước ta, đổi mới là yêu cầu bức thiết, là vấn đề sống còn” mãi khắc ghi trong lòng nhân dân ta, cổ vũ, động viên chúng ta vững bước đi lên.
Học tập và noi gương Tổng Bí thư Trường Chinh, chúng ta nguyện giữ vững sự đoàn kết thống nhất, ra sức khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng, đưa sự nghiệp đổi mới mà Đồng chí là một trong những người tiên phong khởi xướng tiếp tục giành được những thành tựu to lớn hơn nữa, mở ra thời kỳ phát triển mới, vẻ vang, tốt đẹp của đất nước, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội./.
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 12, tr. 402.
[2] Trường Chinh: Tuyển tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t. 3, tr. 921.
[3] Trường Chinh: Tuyển tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t. 3, tr. 1.201.
[4] Trường Chinh: Tuyển tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t. 3, tr. 1.207.
[5] Trường Chinh: Tuyển tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t. 3, tr. 1.232.
[6] Trường Chinh: Tuyển tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t. 3, tr. 1.292.
[7] Trường Chinh: Tuyển tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t. 3, tr. 1.308.
[8] Trường Chinh: Tuyển tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t. 3, tr. 1.403-1.404.

Thứ Bảy, 21 tháng 1, 2017

Bắt tạm giam và khám xét nơi ở đối với Trần Thị Nga về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”

Bắt tạm giam và khám xét nơi ở đối với Trần Thị Nga về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”



Ngày 21/01/2017, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Hà Nam thi hành lệnh bắt tạm giam và khám xét nơi ở đối với Trần Thị Nga về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” quy định tại Điều 88, Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1999.
Đối tượng Trần Thị Nga, sinh ngày 28/4/1977 quê quán: Xóm 3, thôn Đồng Phú, xã Nguyên Lý, huyện Lý Nhân; tạm trú tại số nhà 254, đường Trần Thị Phúc, Tổ 10, phường Hai Bà Trưng, TP. Phủ Lý, Hà Nam. Khi bắt đối tượng Trần Thị Nga đang truy cập mạng Internet đưa một số video, clip, bài viết tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

 Quá trình bắt, khám xét được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật và đã thu giữ nhiều tài liệu, vật chứng liên quan đến vụ án. Hiện Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Hà Nam tiếp tục điều tra làm rõ vụ án./.
 Nguồn: việt nam thời báo

Thứ Ba, 17 tháng 1, 2017

Ban Bí thư kỷ luật Ban thường vụ Đảng ủy Ngoài nước

Ngày 16/1, thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Hôm nay, tại trụ sở TƯ Đảng, Ban Bí thư đã họp dưới sự chủ trì của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng để xem xét thi hành kỷ luật Ban Thường vụ Đảng ủy Ngoài nước nhiệm kỳ 2010-2015.
Tại cuộc họp, sau khi xem xét báo cáo của UB Kiểm tra TƯ sau: Trong thời gian qua, Ban Thường vụ Đảng ủy Ngoài nước nhiệm kỳ 2010-2015 đã để xảy ra tình trạng nội bộ mất đoàn kết; thực hiện không nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình; có khuyết điểm về một số vi phạm trong công tác cán bộ và giải quyết tố cáo; thực hiện không nghiêm Quy chế làm việc của Đảng ủy và cơ quan...
Những khuyết điểm, vi phạm nêu trên đã ảnh hưởng đến vai trò lãnh đạo và uy tín của Ban Thường vụ Đảng ủy Ngoài nước, gây dư luận không tốt trong cơ quan Đảng ủy Ngoài nước.
Căn cứ quy định của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật tổ chức đảng vi phạm, Ban Bí thư quyết định kỷ luật bằng hình thức khiển trách đối với Ban Thường vụ Đảng ủy Ngoài nước nhiệm kỳ 2010-2015.
Trước đó, tại kỳ họp thứ 9 UB Kiểm tra TƯ đã xem xét thi hành kỷ luật Ban Thường vụ Đảng ủy Ngoài nước và ông Lê Dân, nguyên Bí thư Đảng ủy Ngoài nước.
Theo UB Kiểm tra TƯ, thời gian qua, Ban Thường vụ Đảng ủy Ngoài nước đã để xảy ra tình trạng nội bộ mất đoàn kết; thực hiện không nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình; trong công tác cán bộ và giải quyết tố cáo có vi phạm, khuyết điểm.
Với cương vị là người đứng đầu, ông Lê Dân chịu trách nhiệm chính về những vi phạm, khuyết điểm của tập thể Ban Thường vụ Đảng ủy Ngoài nước nhiệm kỳ 2010-2015. 
Ông Lê Dân chưa thực hiện tốt việc giữ gìn đoàn kết nội bộ; chưa thực hiện đúng quy định của Đảng, Nhà nước trong việc bổ nhiệm, xử lý kỷ luật cán bộ và giải quyết tố cáo; chưa lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm Quy chế làm việc của Đảng ủy và cơ quan Đảng ủy Ngoài nước; phương pháp, tác phong công tác còn hạn chế; chưa thực sự nghiêm túc khắc phục, sửa chữa khuyết điểm đã được chỉ ra sau khi kiểm tra.
Vi phạm, khuyết điểm nêu trên đã ảnh hưởng đến vai trò lãnh đạo và uy tín của Ban Thường vụ Đảng ủy Ngoài nước và cá nhân ông Lê Dân, tạo dư luận không tốt trong cơ quan.
Xét nội dung, tính chất, mức độ vi phạm; căn cứ quy định của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên vi phạm, UB Kiểm tra TƯ đã quyết định thi hành kỷ luật bằng hình thức khiển trách đối với ông Lê Dân; đồng thời, đề nghị Ban Bí thư xem xét, thi hành kỷ luật khiển trách đối với Ban Thường vụ Đảng ủy Ngoài nước nhiệm kỳ 2010-2015.
Theo VGP

Đòi từ bỏ chủ nghĩa xã hội là một sai lầm lớn

Sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 là một cơn “động đất chính trị” lớn của thế kỷ 20. Nó có ảnh hưởng lớn không chỉ đối với thế giới xã hội chủ nghĩa và độc lập dân tộc mà còn cả đối với thế giới tư bản chủ nghĩa.
Các ông trùm chiến lược, chiến lược gia và chính khách cỡ bự của chủ nghĩa tư bản đều vỗ tay ăn mừng rằng đây là hồi chuông báo tử, rằng xã hội chủ nghĩa sẽ diệt vong vào cuối thế kỷ 20. Ta nhận định hoàn toàn ngược lại. Sự sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu kéo theo thoái trào của phong trào cộng sản và công nhân thế giới là một tổn thất lớn, nhưng đó là tạm thời chứ không phải tất yếu, tin rằng các nước xã hội chủ nghĩa còn lại sẽ giữ vững trận địa, các đảng cộng sản và công nhân sẽ khôi phục hoạt động trong điều kiện mới và xu thế xã hội chủ nghĩa sẽ tiếp tục đi lên dưới hình thức này hay hình thức khác.

Câu trả lời bước đầu đã có vào cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21. Chủ nghĩa xã hội không hề diệt vong. Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại không những giữ vững trận địa mà còn định hướng vững vàng cho sự phát triển tiến lên. Từ vùng Trung-Nam Mỹ đã phát sinh phong trào xã hội chủ nghĩa kiểu Mỹ La-tinh, khởi đầu từ Vê-nê-du-ê-la rồi lan ra một số nước khác, nay tuy đang gặp nhiều khó khăn và có bước thụt lùi. Chủ nghĩa tư bản thế giới không thể chứng minh được rằng nó là lực lượng thống trị toàn cầu và xã hội tư bản là xã hội tốt đẹp cuối cùng của loài người. Ngay giữa lúc thế giới tư bản chủ nghĩa huênh hoang về sức sống dài lâu của nó cũng lâm vào khủng hoảng cục bộ, rồi đến khủng hoảng toàn diện hơn, kể từ năm 2008 đến nay, vẫn còn chưa hoàn toàn hồi phục. Thế giới từ lưỡng cực thành đơn cực, rồi nay lại thành đa cực. Các nước thuộc các chế độ chính trị, xã hội khác nhau đều tham gia “toàn cầu hóa” và “hội nhập quốc tế”, vừa cạnh tranh, vừa hợp tác dưới nhiều cung bậc khác nhau.
Điểm qua như thế để thấy rõ rằng, gần 30 năm qua, xung quanh vấn đề trên theo hay không theo chủ nghĩa xã hội, diễn biến tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và trong xã hội ở nước ta cũng không thuần nhất mà khá phức tạp.
Để góp phần phê phán các quan điểm sai trái, xuyên tạc con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, gần đây, ban tổ chức một hội thảo có đề nghị tôi viết tham luận nội dung “phê phán quan điểm cho rằng chủ nghĩa xã hội sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, vì thế Việt Nam không nên và không thể gắn liền mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.
Tôi nghĩ, quan điểm sai trái này không phải bây giờ mới có mà đã có từ lâu, từ sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Nhưng từ đó đến nay, những kẻ chống đối không còn nói nhẹ nhàng như thế, họ thẳng thừng nói: “Đảng Cộng sản Việt Nam tự giác và chủ động thay đổi Cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ một cách kiên quyết nhưng ôn hòa…”. Và đến thời điểm chúng ta đang tiến hành “phê phán các quan điểm sai trái, xuyên tạc cuộc đấu tranh chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, có người mang danh đảng viên còn ngạo mạn nói rằng, trong lựa chọn đường lối, Đảng ta đã sai lầm không chỉ từ Hội nghị thành lập Đảng (1930) mà là từ Hội nghị Tua (1921). Ý tứ phía sau là gì, chắc mọi người chúng ta đều biết.
Quan điểm cho rằng “chủ nghĩa xã hội sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, vì thế Việt Nam không nên và không thể gắn liền mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội” là sai lầm. Sai lầm ít nhất là ở mấy điểm sau đây:
Về sự sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu
1. Sự sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của một mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội chứ không phải sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung, với tư cách là một nấc thang phát triển của xã hội loài người, theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê-nin.
2. Chế độ Xô-viết ngay từ lúc mới ra đời ở Nga sau Cách mạng Tháng Mười (1917) và sau này trên toàn Liên bang Xô-viết, đã tỏ rõ được tính ưu việt so với các chế độ chính trị-xã hội trước đó. Chính quyền Xô-viết thực sự là chính quyền của công, nông, binh và của nhân dân lao động nói chung. Nhờ tính ưu việt đó, nó đã đánh thắng cuộc chiến tranh can thiệp của các nước đế quốc sau Cách mạng Tháng Mười, lập lại hòa bình và xây dựng chế độ mới, thực hiện công nghiệp hóa và tập thể hóa nông nghiệp thành công, đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của phát xít Đức-Nhật, dẫn tới sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Vào những thập niên 60 và 70 của thế kỷ 20, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đạt được những thành công lớn, khiến cho Đảng và Nhà nước Xô-viết ngộ nhận là chủ nghĩa xã hội đã xây dựng xong và chủ trương Liên Xô bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Sự thật thì cũng thời gian đó, nhiều nhược điểm và khuyết tật trong nội bộ Nhà nước Xô-viết cũng đã bắt đầu hé lộ, nhất là khi so sánh với những bước phát triển của hệ thống tư bản chủ nghĩa thời đó. Nếu vì sự sụp đổ sau này mà phủ nhận sạch trơn những gì chế độ Xô-viết đã giành được là một sai lầm trong cách nhìn lịch sử.
3. Sau khi phát hiện sự chậm trễ của mình, Liên Xô đề ra chính sách cải tổ; các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũng đề ra cải cách. Cải tổ và cải cách nhằm mục tiêu tăng tốc về kinh tế và thực hiện chế độ dân chủ rộng rãi hơn. Sai lầm của Liên Xô và các nước Đông Âu lúc đó là đã sa vào chủ nghĩa đa nguyên, đa đảng đối lập, buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng, gây hoang mang, dao động trong đông đảo quần chúng, dẫn đến hỗn loạn xã hội, khiến cho ở Đông Âu, chính quyền bị các thế lực thù địch cướp lấy, còn Liên Xô thì chia rẽ sâu sắc trong nội bộ lãnh đạo, cuối cùng, chính quyền cũng lọt vào tay nhóm chống đối trong Bộ Chính trị, những kẻ chống chính quyền Xô-viết từ rất sớm. Không thấy nguyên nhân trực tiếp của sự sụp đổ là ở đây mà coi sự sụp đổ là tất yếu của chính quyền Xô-viết cũng là sai lầm trong cách nhìn lịch sử.
4. Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan nêu trên (tuy chưa hết), còn có một nguyên nhân trực tiếp khác nữa là âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đế quốc chủ nghĩa. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chúng đẩy mạnh chạy đua vũ trang. Trong khi lãnh đạo Liên Xô chủ trương thi đua hòa bình thì chúng một mặt đẩy mạnh chạy đua vũ trang, mặt khác đề ra chiến lược “diễn biến hòa bình” để xóa bỏ chủ nghĩa xã hội mà không cần chiến tranh và súng đạn. Liên Xô và nhiều nước khác đã sa vào cái bẫy này mà không tự giác phát hiện.
Về sự lựa chọn độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
5. Đúng là ngay từ ngày mới thành lập, Đảng ta đã đề ra chủ trương “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới chủ nghĩa cộng sản”. Như cách nói ngày nay, đó là làm cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được đề ra xuất phát từ thực tế tình hình nước ta lúc bấy giờ là thuộc địa của Pháp, cũng xuất phát từ xu thế phát triển có tính quy luật của thời đại mới sau Cách mạng Tháng Mười là tiến lên chủ nghĩa xã hội. 87 năm qua, những chặng đường phát triển của cách mạng Việt Nam và những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đã chứng minh sự đúng đắn của đường lối này, cớ sao vì sự sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu mà phải từ bỏ nó?
6. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, Việt Nam học tập kinh nghiệm của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đi trước nhưng hoàn toàn không có sự sao chép. Mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không phải là mô hình Xô-viết của Liên Xô bởi sự khác biệt cơ bản là ở chỗ một bên là từ cơ sở của chế độ tư bản đi lên, một bên từ độc lập dân tộc đi lên. Bác Hồ từng nói, Bác chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao nước ta được độc lập, dân ta được tự do, hạnh phúc, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Chủ nghĩa xã hội đối với Bác như ngày nay chúng ta vẫn nói, là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nhầm lẫn mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với mô hình Xô-viết là một sự sai lầm lớn.
7. Vào những năm Liên Xô và Đông Âu tiến hành cải tổ và cải cách, Việt Nam cũng đề ra đường lối đổi mới. Những nhân tố đầu tiên của đổi mới xuất hiện từ những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ 20, nhưng đổi mới toàn diện, trở thành đường lối chính thức của Đảng ta vào cuối năm 1986, theo nghị quyết Đại hội VI của Đảng. Đổi mới của chúng ta không đi theo vết xe đổ của cải tổ và cải cách ở Liên Xô và Đông Âu. Đảng ta đã nêu rõ 6 nguyên tắc của đổi mới, trong đó vấn đề giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới nhưng không đổi màu là nguyên tắc đầu tiên. Chúng ta cũng bác bỏ quan điểm cho rằng “đổi mới là nửa vời, không nhất quán”. Sự thật là đổi mới của chúng ta qua 30 năm đã đưa lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, làm cho Việt Nam càng vững bước đi lên trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đánh đồng đổi mới của Việt Nam với cải tổ và cải cách ở Liên Xô và Đông Âu là một sai lầm có dụng ý.
8. Tổng kết 30 năm đổi mới cho thấy: Nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bổ sung, phát triển năm 2011 chỉ rõ: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.
Cương lĩnh nêu lên 8 đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng, trong đó 3 đặc trưng đầu tiên là: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp…
Thử hỏi con đường độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội xán lạn như vậy tại sao ta phải từ bỏ chỉ vì mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ?
Trong khi nêu lên 8 sai lầm như trên, tôi muốn đặt ra câu hỏi đối với các tác giả đòi chúng ta từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa, ý đồ thực sự của các vị phía sau đòi hỏi này là gì?
(Theo Quân Đội Nhân Dân)

Bộ TT&TT yêu cầu đặc biệt chủ động phòng, chống tấn công mạng

Bộ TT&TT vừa có văn bản đôn đốc thực hiện các biện pháp tăng cường bảo đảm an toàn thông tin dịp tết Nguyên đán Đinh Dậu 2017.


Theo Bộ, những năm trở lại đây tình hình an toàn thông tin tại Việt Nam thường có các diễn biến phức tạp, tấn công mạng tăng mạnh về quy mô, số lượng cũng như mức độ nguy hiểm, đặc biệt trong khoảng thời gian diễn ra các sự kiện lớn của đất nước và những dịp nghỉ lễ. Bộ yêu cầu thủ trưởng cơ quan, doanh nghiệp chỉ đạo đơn vị trực thuộc tiến hành rà soát, kiểm tra, thực hiện đầy đủ, kịp thời các quy định về bảo đảm an toàn thông tin. Đặc biệt là thực hiện các hướng dẫn của Bộ TT&TT cũng như cơ quan chức năng liên quan về bảo đảm an toàn thông tin cho các hệ thống cổng thông tin điện tử, hệ thống thư điện tử.

Đơn vị chuyên trách về công nghệ thông tin và an toàn thông tin của các cơ quan, doanh nghiệp phải chủ động lên các phương án phòng, chống tấn công mạng, ứng cứu sự cố và hoạt động dự phòng trong trường hợp hệ thống bị tấn công…
(Theo Pháp Luật)

Thứ Hai, 16 tháng 1, 2017

Tết Cổ Truyền Ở Việt Nam

Tết Nguyên Đán (hay còn gọi là Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền hay chỉ đơn giản còn gọi là Tết) là dịp lễ quan trọng nhất của Việt Nam, cùng với văn hóa Tết Âm lịch của các nước Đông Á. Trước ngày Tết, thường có những ngày khác để sửa soạn như "Tết Táo Quân" (23 tháng chạp âm lịch) và "Tất Niên" (29 hoặc 30 tháng chạp âm lịch)
Vì Tết tính theo Âm lịch là lịch theo chu kỳ vận hành của Mặt Trăng nên Tết Nguyên Đán của Việt Nam muộn hơn Tết Dương lịch (còn gọi nôm na là Tết Tây). Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của Âm lịch nên ngày đầu năm của dịp Tết Nguyên đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 19 tháng 2 Dương lịch mà thường rơi vào khoảng cuối tháng 1đến giữa tháng 2 Dương lịch. Toàn bộ dịp Tết Nguyên đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng).

Hàng năm, Tết được tổ chức vào ngày mồng 1 tháng 1 theo âm lịch trên đất nước Việt Nam và ở một vài nước khác có cộng đồng người Việt sinh sống. Trong những ngày Tết, các gia đình sum họp bên nhau, cùng thăm hỏi người thân, mừng tuổi và thờ cúng tổ tiên... Theo phong tục tập quán, Tết thường có những điều kiêng kỵ
Văn hóa Đông Á – thuộc văn minh nông nghiệp lúa nước – do nhu cầu canh tác nông nghiệp đã "phân chia" thời gian trong một năm thành 24 tiết khí khác nhau (và ứng với mỗi tiết này có một thời khắc "giao thừa") trong đó tiết quan trọng nhất là tiết khởi đầu của một chu kỳ canh tác, gieo trồng, tức là Tiết Nguyên Đán sau này được biết đến là Tết Nguyên Đán.
Theo lịch sử Trung Quốc, nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ năm Tam Hoàng Ngũ Đế 2879 TCN thay đổi theo từng thời kỳ. Tuy nhiên, Tam Hoàng Ngũ Đế cũng chỉ là những nhân vật truyền thuyết. Các nhà nghiên cứu Việt Nam và phương Tây hiện đại cho rằng trên lãnh thổ Trung Quốc (ngày nay) thời cổ đại có hai chủng tộc sinh sống là người Hán (Mongloid phương Bắc) ở lưu vực Hoàng Hà người Bách Việt (Mongloid phương Nam) ở nam Dương Tử. Do đặc điểm thời tiết và địa hình, nên kinh tế sơ khai của người Hán là chăn nuôi du mục còn người Bách Việt trồng lúa nước. Vì vậy, các nhà nghiên cứu cho rằng Tết là lễ hội nông nghiệp nên xuất xứ từ các dân tộc Bách Việt phương Nam còn người Hán chỉ tiếp nhận sau này. Theo Kinh Lể (Chuyên ghi chép lại lễ nghi thời xưa) của Khổng Tử viết rằng: "Ta không biết Tết là gì. Nghe đâu đó là tên của một lễ hội lớn của bọn người Man (Người tộc Bách Việt). Họ nhảy múa như điên uống rượu và ăn chơi vào những ngày đó. Họ gọi ngày đó là: Tế Sạ".
Lịch sử Trung Quốc cũng cho rằng Tết được thay đổi qua các thời kỳ. Đời Tam đại, nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng giêng, tức tháng Dần. Nhà Thương thích màu trắng nên lấy tháng Sửu, tức tháng chạp, làm tháng đầu năm. Nhà Chu ưa sắc đỏ nên chọn tháng Tý, tức tháng mười một, làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên quan niệm về ngày giờ "tạo thiên lập địa" như sau: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày tết khác nhau. Đời Đông Chu, Khổng Tử đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời nhà Tần (thế kỷ 3 TCN), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng mười. Đến thời nhà Hán, Hán Vũ Đế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức tháng giêng. Từ đó về sau, không còn triều đại nào thay đổi về tháng Tết nữa. Song những chi tiết này chỉ tìm thấy trong sách sử Trung Quốc, không có các nguồn tư liệu khác để kiểm chứng. Theo các nghiên cứu gần đây, thực tế cư dân Bách Việt ngày xưa ăn Tết vào tháng Tý (tháng 11 âm lịch ngày nay) đến thời Hán mới chính thức đổi thành tháng Dần (tháng Giêng).
Trước năm 1967, Việt Nam lấy múi giờ Bắc Kinh làm chuẩn cho âm lịch. Ngày 8 tháng 8 năm 1967, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành đổi lịch dùng múi giờGMT+7 làm chuẩn ở miền Bắc. Vì thế hai miền nam bắc Việt Nam đón Tết Mậu Thân hai ngày khác nhau (miền Bắc ngày 29 tháng một trong khi miền Nam thì ngày 30 tháng 1). Từ năm 1976, cả 2 miền nam bắc mới dùng chung múi giờ GMT+7.
Công việc sửa soạn cho ngày Tết của người Việt thường bắt đầu từ ngày 23 tháng Chạp, là ngày mà người Việt cúng ông Táo (Táo quân). Theo quan điểm của người Việt thì ông Táo vừa là thần bếp trong nhà vừa là người ghi chép tất cả những việc làm tốt xấu mà con người đã làm trong năm cũ và báo cáo với Ngọc Hoàng những vấn đề tốt xấu của gia chủ. Ông Táo được cúng vào trưa hoặc chiều ngày 23 tháng Chạp âm lịch hàng năm. Lễ cúng gồm có hương (nhang), nến, hoa quả, vàng mã và hai mũ đàn ông, một mũ đàn bà kèm theo ba con cá chép (cá chép thật hoặc cá chép làm bằng giấy kèm theo cỗ mũ). Theo sự tích ông Táo, cá chép sẽ đưa ông Táo vượt qua Vũ Môn để lên Thiên đình gặp Ngọc Hoàng. Một số gia đình ở nông thôn vẫn còn gìn giữ phong tục dựng cây nêu, trong khi ở thành phố, phong tục này đã bị lãng quên. Theo phong tục, cây nêu được dựng lên để chống lại quỷ dữ và những điềm gở. Cây nêu thường được treo hoặc trang trí thêm những thứ được coi là để dọa ma quỷ như: tỏi, xương rồng, hình nộm và lá dứa. Trước ngày Tết, người Việt cũng chuẩn bị bánh chưng, bánh giầy còn ở miền nam thì loại bánh phổ biến là bánh tét và các món ăn thịnh soạn để dâng lên ông bà tổ tiên.
Ngày Tất niên có thể là ngày 30 tháng Chạp (nếu là năm đủ) hoặc 29 tháng Chạp (nếu là năm thiếu). Đây là ngày gia đình sum họp lại với nhau để ăn cơm buổi tất niên. Buổi tối ngày này, người ta làm cỗ cúng tất niên. Giữa ngày 30 (hoặc 29) tháng Chạp và ngày mồng 1 tháng Giênggiờ Tý (từ 23 giờ hôm trước đến 1 giờ hôm sau), trong đó thời điểm bắt đầu giờ Chính Tý (0 giờ 0 phút 0 giây ngày Mồng 1 tháng Giêng) là thời khắc quan trọng nhất của dịp Tết. Nó đánh dấu sự chuyển giao năm cũ và năm mới, nó được gọi là Giao thừa. Để ghi nhận thời khắc này, người ta thường làm hai mâm cỗ. Một mâm cúng gia tiên tại bàn thờ ở trong nhà mình và một mâm cúng thiên địa ở khoảng sân trước nhà. Một số cộng đồng lấy con hổ là vật thờ thì gọi là cúng Ông Ba Mươi. Một số cộng đồng khác thì có một phần cỗ dành để cúng chúng sinh, cúng những cô hồn lang thang không nơi nương tựa.
Sắp dọn bàn thờ Trong gia đình người Việt thường có một bàn thờ tổ tiên, ông bà (hay còn gọi ông Vãi). Cách trang trí và sắp đặt bàn thờ khác nhau tùy theo từng nhà. Biền, bàn thờ là nơi tưởng nhớ, là thế giới thu nhỏ của người đã khuất. Hai cây đèn tượng trưng cho mặt trời, Mặt Trăng và hương là tinh tú. Hai bát hương để đối xứng. Phía sau hai cây đèn thường có hai cành hoa cúc giấy với nhiều bông nhỏ bao quanh bông lớn. Có nhà cũng cắm "cành vàng lá ngọc" (một thứ hàng mã) với sự cầu mong làm ăn được quả vàng, quả bạc và buôn bán lãi gấp nhiều lần năm trước. Ở giữa có trục "vũ trụ" là khúc trầm hương dưới dạng khúc khủy và vươn lên trong bát hương. Nhiều gia đình đặt xen hai cái đĩa giữa đèn và hương để đặt hoa quả lễ gọi là mâm ngũ quả (tuỳ mỗi miền có sự biến thiên các loại quả, nhưng mỗi loại quả đều có ý nghĩa của nó). Trước bát hương để một bát nước trong để coi như nước thiêng. Hai cây mía đặt ở hai bên bàn thờ là để các cụ chống gậy về với con cháu và dẫn linh hồn tổ tiên từ trên trời về hạ giới.
Giao thừa là thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới. Trong thời khắc giao thừa mọi người trong gia đình thường dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất. Dịp này, người ta thường bắn pháo hoa ở những địa điểm rộng rãi, thoáng mát.
Cúng Giao thừa là lễ cúng để đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến.

"Ngày mồng Một tháng Giêng" là ngày Tân niên đầu tiên và được coi là ngày quan trọng nhất trong toàn bộ dịp Tết. Không kể những người tốt số, hợp tuổi được mời đi xông đất, vào sáng sớm ngày này, người Việt cổ thường không ra khỏi nhà, chỉ bày cỗ cúng Tân niên, ăn tiệc và chúc tụng nhau trong nội bộ gia đình. Đối với những gia đình đã tách khỏi cha mẹ và cha mẹ vẫn còn sống, họ đến chúc tết các ông bố theo tục: Mồng Một Tết cha.
"Ngày mồng Hai tháng Giêng" là ngày có những hoạt động cúng lễ tại gia vào sáng sớm. Sau đó, người ta chúc tết các bà mẹ theo tục Mồng Hai Tết mẹ. Riêng đàn ông chuẩn bị lập gia đình còn phải đến nhà cha mẹ vợ tương lai (nhạc gia) để chúc Tết theo tục Đi sêu.
"Ngày mồng Ba tháng Giêng" là ngày sau khi cúng cơm tại gia theo lệ cúng ít nhất đủ ba ngày Tết, các học trò thường đến chúc Tết thầy dạy học theo tục Mồng Ba Tết thầy. Trong những ngày này người ta thường đi thăm viếng, hỏi thăm nhau những điều đã làm trong năm cũ và những điều sẽ làm trong năm mới.
Đối với cộng đồng người Công giáo Việt Nam, ba ngày đầu năm họ thường tham dự thánh lễ ở nhà thờ với ý cầu nguyện cho từng ngày: mồng Một cầu nguyện bình an cho năm mới, mồng Hai cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ nếu còn sống và tưởng nhớ nếu đã qua đời, mồng Ba cầu nguyện thánh hóa cho công ăn, việc làm trong năm mới được tốt đẹp.
Xông đất(hay đạp đấtmở hàng) là tục lệ đã có lâu đời ở Việt Nam. Nhiều người quan niệm ngày Mồng Một "khai trương" một năm mới. Họ cho rằng vào ngày này, nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ, may mắn, cả năm cũng sẽ được tốt lành, thuận lợi. Ngay sau thời khắc giao thừa, bất cứ người nào bước từ ngoài vào nhà với lời chúc năm mới được coi là đã xông đất cho gia chủ. Người khách đến thăm nhà đầu tiên trong một năm cũng vì thế mà quan trọng. Cho nên cứ cuối năm, mọi người cố ý tìm xem những người trong bà con hay láng giềng có tính vui vẻ, linh hoạt, đạo đức và thành công để nhờ sang thăm. Người đến xông đất thường chỉ đến thăm, chúc tết chừng 5 đến 10 phút chứ không ở lại lâu, cầu cho mọi việc trong năm của chủ nhà cũng được trôi chảy thông suốt.
Cách chọn tuổi xông đất:
  1. Tuổi Giáp hạp với Kỷ mà kỵ với Canh – Mậu.
  2. Tuổi Ất hạp với Canh mà kỵ với Tân – Kỷ.
  3. Tuổi Bính hạp với Tân mà kỵ với Nhâm – Canh.
  4. Tuổi Đinh hạp với Nhâm mà kỵ với Quý – Tân.
  5. Tuổi Mậu hạp với Quý mà kỵ với Giáp – Nhâm.
  6. Tuổi Kỷ hạp với Giáp mà kỵ với Ất – Quý.
  7. Tuổi Canh hạp với Ất mà kỵ với Bính – Giáp.
  8. Tuổi Tân hạp với Bính mà kỵ với Đinh – Ất.
  9. Tuổi Nhâm hạp với Đinh mà kỵ với Mậu – Bính.
  10. Tuổi Quý hạp với Mậu mà kỵ với Kỷ – Đinh.
Người đi xông đất xong có niềm vui vì đã làm được việc phước, người được xông đất cũng sung sướng vì tin tưởng gia đạo mình sẽ may mắn trong suốt năm tới. Thời xưa, chỉ có hai cách chọn người tốt vía xông đất ngày đầu năm. Kẻ làm quan, người có học chọn người xông đất có tuổi hợp tuổi với chủ nhà.
Xuất hành là lần đi ra khỏi nhà đầu tiên trong năm, thường được thực hiện vào ngày tốt đầu tiên của năm mới để đi tìm may mắn cho bản thân và gia đình. Trước khi xuất hành, người ta phải chọn ngày Hoàng đạo, giờ Hoàng đạo và các phương hướng tốt để mong gặp được các quý thần, tài thần, hỉ thần... Tại miền Bắc, nếu xuất hành ra chùa hay đền, sau khi lễ bái, người Việt còn có tục bẻ lấy một cành lộc để mang về nhà lấy may, lấy phước. Đó là tục hái lộc. Cành lộc là một cành đa nhỏ hay cành đề, cành si... là những loại cây quanh năm tươi tốt và nảy lộc. Tục hái lộc ở các nơi đền, chùa ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật ban cho nhân năm mới. Cành lộc thường đem về cắm ở bàn thờ. Khác với miền Bắcmiền Trung không có tục hái lộc đầu năm nhờ thế mà cây cối trong các đền chùa ở miền Trung vẫn giữ nguyên lá xanh biếc suốt cả mùa xuân.

Tuy nhiên việc hái lộc ngày nay đã có những quan niệm trái chiều so với trước đó là: - Việc hái lộc không nên vì có thể có những cành lộc có "Vong" (linh hồn) bám theo. Khi chúng ta hái lộc về vô tình sẽ mang "Vong" về theo, nếu "Vong" tốt thì không sao nhưng nếu "Vong" xấu thì có thể làm cho nhà cửa chúng ta không may mắn... Đây là vấn đề mang tinh Duy tâm tuy nhiên nó cũng có cái lý của nó. - Tiếp theo việc hái lộc đôi khi làm ảnh hưởng đến cây xanh cảnh quan đô thị vì tâm lý mọi người đều muốn đem thật nhiều lộc về nhà cầu may, do vậy đã không ít trường hợp làm hỏng hết cây cối gây ảnh hưởng đến môi trường... - Cuối cùng việc hái lộc đôi khi dẫn đến xô xát do việc tranh cướp hoặc hái "trộm" lộc trong các cơ quan nhạy cảm như Ngân hàng chẳng hạn... Những việc làm này không biết có mang lại may mắn không nhưng nó phản ánh mặt xấu của Văn hóa ứng xử của những người trong cuộc...
Sáng mồng Một Tết còn gọi là ngày Chính đán, con cháu tụ họp ở nhà tộc trưởng để lễ Tổ Tiên và chúc tết ông bà, các bậc huynh trưởng. Theo quan niệm, cứ năm mới tới, mỗi người tăng lên một tuổi, bởi vậy ngày mồng Một Tết là ngày con cháu "chúc thọ" ông bà và các bậc cao niên (ngày xưa, các cụ thường không nhớ rõ ngày tháng sinh nên chỉ biết Tết đến là tăng thêm một tuổi).

Mừng tuổingười lớn thường tặng trẻ em tiền bỏ trong một bao giấy đỏ, hay "hồng bao", gọi là "lì xì" với những lời chúc mừng ăn no, chóng lớn. Theo cổ tích Trung Quốc thì trong "hồng bao" có 8 đồng tiền (là Bát Tiên hóa thân) được đặt dưới gối đứa trẻ để xua đuổi quỷ đến quấy nhiễu, vì ma sẽ sợ giấy màu đỏ.

Có thể nói Tết cổ truyền ở Việt Nam là một ngày tết mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc
Nguồn: wikipedia