Thứ Năm, 9 tháng 2, 2017

Một số khía cạnh bản chất của mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam

Cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định, kinh tế và chính trị vốn là hai lĩnh vực rộng lớn, cơ bản và quan trọng nhất của đời sống xã hội. Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị lại càng rộng lớn, đa dạng, phức tạp hơn. Để nhận thức rõ bản chất, nội dung của mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam, ngoài việc trực tiếp phân tích mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng (kinh tế) và kiến trúc thượng tầng (chính trị) đòi hỏi phải tìm hiểu những hình thức biểu hiện khác nhau của mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, tức là cần “lượng hóa” mối quan hệ này bằng các mối quan hệ “thứ cấp”, mối quan hệ cụ thể. 
Việc “lượng hóa” mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam thành các mối quan hệ “thứ cấp” cần tuân thủ theo những cơ chế, các nguyên tắc cơ bản: 1- Đó là các quan hệ phản ánh tập trung nhất, khái quát nhất, bản chất nhất mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. 2- Đó là những mối quan hệ phản ánh đúng mâu thuẫn, bản chất của quá trình đổi mới và phát triển của Việt Nam, mà trước hết là phát triển kinh tế. 3- Đó là những quan hệ phản ánh đặc trưng của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, vừa phù hợp với quy luật, xu thế của thời đại, vừa phù hợp với trình độ phát triển và bản sắc dân tộc(1). 
Do tính chất rộng lớn, đa dạng, phức tạp của mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị nên các mối quan hệ “thứ cấp” của nó cũng biểu hiện rất phong phú và sinh động. Tuy nhiên, có ba mối quan hệ cơ bản, cốt lõi nhất trong bản chất của mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam. 
Thứ nhất, mối quan hệ giữa xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với xây dựng và hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa. 
Đây là mối quan hệ chủ yếu, phản ánh tập trung nhất mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; bảo đảm giải quyết đúng đắn, hài hòa quan hệ giữa quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế. Đảng ta xác định, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là hệ thống “các thiết chế, công cụ và nguyên tắc vận hành kinh tế thị trường được tự giác tạo lập và sử dụng để giải phóng triệt để sức sản xuất, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”(2).
Xét về mặt nguyên tắc, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tất yếu phải là thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa. Và, theo quan điểm của Đảng, thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa là “hệ thống các quy tắc, quy định pháp luật, các luật lệ với tư cách là những chuẩn mực điều chỉnh hành vi của các chủ thể chính trị, các tổ chức chính trị, các cơ quan quản lý nhà nước và cơ chế vận hành; điều chỉnh các hoạt động trong lĩnh vực chính trị hướng tới thiết lập và phát triển nền chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân”(3).
Trên thực tế, để phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta xác định, thể chế chính trị phải được tổ chức và hoạt động phù hợp với thị trường. Đặc biệt, để tuân thủ đúng cơ chế thị trường luôn đặt ra yêu cầu cấp thiết phải sắp xếp lại chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể thuộc thể chế chính trị, nhất là thể chế nhà nước. Bên cạnh đó, sự phát triển nhanh chóng, năng động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi thể chế chính trị phải thường xuyên đổi mới, hoàn thiện theo hướng dân chủ xã hội chủ nghĩa nhằm bảo đảm cho thể chế chính trị không những luôn phù hợp với các bước phát triển của kinh tế, mà còn phải luôn ở thế chủ động trong các quan hệ kinh tế, thật sự có khả năng lãnh đạo kinh tế phát triển theo đúng định hướng. Vì thế, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, năng lực điều hành, quản lý của Nhà nước trong kinh tế là điều kiện tiên quyết để thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa đóng vai trò là nhân tố quan trọng, tác động tích cực đối với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Ngược lại, với tư cách là nhân tố giữ vai trò quyết định, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta ngày càng được hoàn thiện, phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây chính là điều kiện thuận lợi để từng bước hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa, đồng thời cũng là cơ sở cho việc hiện thực hóa những định hướng chính trị cho xã hội. Trong Văn kiện Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị”(4).
Đảng ta xác định rõ: xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ tạo ra môi trường và động lực phát triển kinh tế, củng cố cơ sở kinh tế cho đổi mới chính trị, cho việc xây dựng và hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa. Chính thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đóng vai trò động lực to lớn cho sự phát triển một tư duy chính trị năng động, cho việc hoàn thiện một thể chế nhà nước gần dân, sát thực với cuộc sống, cho việc tăng cường và củng cố dân chủ trong hoạt động của các đoàn thể chính trị - xã hội, của nhân dân. Tính năng động và bản chất dân chủ của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi và tạo tiền đề kinh tế - xã hội cho tính năng động và dân chủ trong các thể chế chính trị.
Đổi mới chính trị cũng như quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa sẽ tạo ra cơ sở chính trị - pháp lý cho sự phát triển kinh tế, cũng như cho việc xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc Đảng, Nhà nước lựa chọn mô hình kinh tế như thế nào có vai trò quyết định đến mối quan hệ giữa các tổ chức kinh tế tồn tại trong xã hội, đến cách thức tổ chức, sự vận hành, cơ chế sản xuất, kinh doanh,... cũng như đến mối quan hệ với Đảng và Nhà nước. Vai trò của thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa đối với thể chế kinh tế thị trường được thể hiện trước hết và chủ yếu ở việc giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trong quá trình đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị. Sự lãnh đạo đúng đắn, dựa trên tầm cao trí tuệ khoa học của Đảng là nhân tố quyết định để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của đổi mới kinh tế. 
Thứ hai, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong những vấn đề căn bản của triết lý phát triển ở Việt Nam hiện nay. Đảng ta đã sớm khẳng định, nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng nhất thiết phải có sự quản lý của Nhà nước; phải “bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”(5). Điều đó có nghĩa là, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa luôn là mối quan hệ biện chứng. Bởi lẽ, hai yếu tố quyết định cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường là nhà nước và thị trường. Cho nên, bàn về tính hiệu quả của nền kinh tế thị trường, mấu chốt là phải xác định rõ thực trạng của mối quan hệ này. 
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, có đủ bản lĩnh và khả năng tự đổi mới để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại. Và “Nhà nước quản lý, điều tiết nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, các công cụ kinh tế và lực lượng vật chất cần thiết và phù hợp với nguyên tắc của kinh tế thị trường”(6). Đặc điểm đó thể hiện sự khác biệt về chất của mô hình kinh tế thị trường mà nước ta hướng tới so với các mô hình kinh tế thị trường khác. 
Kinh tế thị trường ra đời và phát triển đã giải phóng và phát huy mạnh mẽ sức sản xuất xã hội cho phát triển kinh tế. Song, bản thân kinh tế thị trường không thể khắc phục được những khuyết tật cố hữu của nó, như khủng hoảng chu kỳ, tàn phá môi trường, phân tầng và phân hóa xã hội, băng hoại nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp,... Bởi thế, đồng thời với việc phát triển nền kinh tế thị trường, Đảng ta luôn coi trọng từng bước xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, để Nhà nước thực hiện tốt chức năng điều tiết, quản lý nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thông qua đó nhằm phát huy những mặt tích cực và hạn chế những khuyết tật của kinh tế thị trường, xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, tiến bộ, phấn đấu đạt được các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. 
Bên cạnh đó, kinh tế thị trường vốn là một kiểu quan hệ giữa người với người trong sản xuất, trao đổi và tiêu dùng, nên mang đậm dấu ấn của quan hệ xã hội, của thể chế chính trị được xây dựng trên nền tảng kinh tế đó. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có tác động trực tiếp nhất tới việc định hướng sự vận động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Pháp luật, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải phản ánh chính xác yêu cầu phát triển khách quan của thị trường, lấy quy luật thị trường làm cơ sở. 
Trong 30 năm đổi mới vừa qua, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa từng bước được xây dựng và hoàn thiện, nhất là việc coi trọng đổi mới vai trò quản lý nhà nước về kinh tế. Nhà nước giảm bớt các chỉ tiêu pháp lệnh, thu hẹp và từng bước xóa bỏ việc quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước bằng kế hoạch tập trung, quan liêu, bao cấp, đồng thời thay vào đó là Nhà nước quản lý, điều tiết nền kinh tế thông qua pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, các công cụ kinh tế và lực lượng vật chất cần thiết. Nhà nước đóng vai trò là một chủ thể kinh tế trên thị trường thông qua việc đầu tư vốn và quản lý tài sản công; tách quyền sở hữu và quyền quản lý, sử dụng; có sự phân cấp ngày càng nhiều hơn để phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương và cơ sở; xóa bỏ các hình thức bao cấp, hạn chế, kiểm soát và xóa bỏ độc quyền kinh doanh,... Nhà nước cũng đã tích cực ban hành các chủ trương, chính sách mở rộng các quan hệ thương mại, xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ với các nước, các đối tác; tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài; chủ động tham gia các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới.
Thứ ba, mối quan hệ giữa ổn định chính trị và đổi mới, phát triển kinh tế.
Trong mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam, Đảng ta xác định, vấn đề ưu tiên giải quyết trước là mối quan hệ giữa ổn định và phát triển. Ổn định và phát triển vừa là tiền đề, điều kiện của nhau, vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả của nhau. Ổn định chính trị - xã hội chính là một trạng thái bền vững của hệ thống xã hội, bảo đảm sự hoạt động và phát triển tối ưu của nó theo xu hướng tiến bộ, phù hợp với quy luật khách quan, ở đó quyền lực chính trị được phát huy trên cơ sở đồng thuận của đại đa số các thành viên xã hội. Ổn định chính trị - xã hội tích cực là tiền đề cho sự phát triển kinh tế, không có ổn định chính trị - xã hội chắc chắn không thể phát triển kinh tế. Đến lượt mình, nếu không phát triển kinh tế sẽ không thể giữ vững được ổn định chính trị - xã hội. 
Đổi mới chính trị, ổn định chính trị với đổi mới kinh tế và phát triển kinh tế luôn có quan hệ biện chứng, tác động qua lại, vừa là tiền đề, vừa là điều kiện trực tiếp, là động lực thúc đẩy lẫn nhau. Khi có ổn định chính trị - xã hội, chế độ chính trị được giữ vững thì các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội sẽ có sự phát triển cân đối, hài hòa. Vì vậy, ngay từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới, Đảng ta đã khẳng định: giữ vững ổn định chính trị là một nguyên tắc của đổi mới. 
Tuy nhiên, “tình huống lý luận và thực tiễn đặt ra là: một mặt, phải đổi mới và phát triển nhanh, mà đổi mới với đúng tầm mức của nó: đổi mới căn bản, toàn diện, triệt để, chứ không phải là cải tiến, điều chỉnh việc này, việc kia; mặt khác, phải giữ vững cho được ổn định chính trị - xã hội, không được để xảy ra rối loạn, vô chính phủ”(7). Theo lô-gíc hình thức, hai yêu cầu này dường như trái ngược nhau, mâu thuẫn với nhau, không thể tương hợp và sẽ rất dễ rơi vào tình trạng để giữ ổn định thì không muốn đổi mới, nhất là đổi mới chính trị; ngược lại, muốn đổi mới nhanh thì không thể không chấp nhận những đảo lộn lớn hay sự mất ổn định trong lĩnh vực này, lĩnh vực khác. Song, biện chứng của cuộc sống không phải như vậy.
Lời giải cho vấn đề này nằm ở việc nhận thức đúng mục tiêu, điều hành đúng phạm vi và có phương thức đúng trong thực hành đổi mới, thực hiện tốt sự kết hợp giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Trong đó, mục tiêu của đổi mới là giữ ổn định chính trị - xã hội vững chắc trên nền tảng kinh tế phát triển, đời sống của các tầng lớp nhân dân được nâng cao, xã hội dân chủ và đồng thuận. 
Ngay từ khi bắt đầu đổi mới, Đảng ta xác định, mấu chốt của việc giữ vững ổn định chính trị là đổi mới và phát triển kinh tế, để giải phóng và tăng cường sức sản xuất xã hội, tăng thu nhập và cải thiện đời sống của nhân dân. Nói cách khác, phải tập trung đổi mới kinh tế trước, vì khủng hoảng kinh tế - xã hội lúc bấy giờ đã đến mức cực kỳ nghiêm trọng. Có đổi mới mạnh mẽ về kinh tế mới tạo được các điều kiện cơ bản để giữ vững ổn định chính trị và thông qua đó mới tiến hành đổi mới chính trị thuận lợi, thậm chí mới biết rõ trong chính trị cần đổi mới những gì, đổi mới ra sao, theo hướng nào,... Và, đổi mới như thế sẽ vẫn giữ vững mục tiêu và bản chất chế độ, không gây ra những đảo lộn hay bất ổn về chính trị. Về phạm vi của đổi mới, trên cơ sở giữ vững 6 nguyên tắc đổi mới được xác định trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa VI và 6 định hướng lớn được xác định trong Nghị quyết số 09-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa VII, hoàn toàn được phép đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và triệt để. Về phương thức tiến hành đổi mới, phải tiến hành cả “từ trên xuống” và “từ dưới lên”, có bước đi vững chắc, với những vấn đề mới và khó phải nghiên cứu kỹ, làm thí điểm để rút kinh nghiệm trước khi triển khai trên diện rộng; đặc biệt, phải dựa vào nhân dân, trên cơ sở dân chủ. Với phương thức ấy sẽ bảo đảm tính chủ động cao, khả năng kiểm soát chặt chẽ các tiến trình xã hội, ngăn chặn từ gốc các nhân tố có thể gây mất ổn định chính trị - xã hội, khủng hoảng kinh tế. Và, “trạng thái ổn định được tạo lập theo phương thức ấy là sự ổn định thực chất, có nền tảng vững chắc, ổn định trong xu thế phát triển, không giả tạo hay chỉ được xác lập bằng mệnh lệnh hành chính, không chỉ giữ được ổn định bằng tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân, mà còn củng cố vững chắc khối đại đoàn kết, đồng thuận xã hội, thực hiện đúng “ý Đảng hợp với lòng dân””(8). 
Trong thời kỳ đổi mới, mối quan hệ giữa ổn định chính trị với đổi mới, phát triển kinh tế đã, đang được Đảng ta nhận thức và chú trọng giải quyết hài hòa, hợp lý, hiệu quả. Trong đó, sự ổn định chính trị tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy đổi mới, phát triển kinh tế, và ngược lại, đổi mới, phát triển kinh tế lại góp phần tích cực nhất vào ổn định chính trị; qua đó góp phần đưa nước ta vượt qua được nhiều khó khăn, thử thách, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế./.
-------------------------------------------
(1) Xem: Dương Xuân Ngọc (Chủ biên), Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 89 - 90
(2) Văn kiện hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 139
(3) Dương Xuân Ngọc (Chủ biên): Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam, Sđd, tr. 93
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 104
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 78
(6) Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 - 2016), Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội 2015, tr. 65
(7), (8) Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (Đồng chủ biên): Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 349, 350
Nguyễn Đình BắcTS, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòngNguồn lấy: Tạp Chí Cộng Sản

Vai trò của đồng chí Trường Chinh đối với cách mạng Việt Nam trên cương vị là Tổng Bí thư

Đồng chí Trường Chinh với tư duy chiến lược tài năng và sáng tạo trong thời kỳ Cách mạng Tháng Tám
Tại Hội nghị Trung ương 7 (tháng 11-1940), đồng chí Trường Chinh được cử làm Quyền Tổng Bí thư thay đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ (bị thực dân Pháp bắt rồi xử bắn váo tháng 8-1940). Tại Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5-1941), đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Từ Hội nghị này, Đảng ta đã hoàn chỉnh cuộc chuyển hướng chiến lược cho phù hợp với tình hình quốc tế và trong nước. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khẳng định: "Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được"(1). 
Trên cơ sở làm sáng tỏ tinh thần của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, trong tài liệu chính sách mới của Đảng(2) , viết tháng 9-1941, đồng chí Trường Chinh đã chỉ rõ: "Cuộc cách mạng Đông Dương hiện thời là cách mạng giải phóng dân tộc"; "lúc này, nhiệm vụ phản đế nặng nề và cấp bách hơn nhiệm vụ ruộng đất". Lúc này quyền lợi dân tộc cao hơn hết thẩy. Quyền lợi của bộ phận phải phục tùng quyền lợi của toàn thể quốc gia, dân tộc. “Đông Dương không được giải phóng khỏi ách đế quốc thì dân tộc sẽ vô cùng đau khổ và bị diệt vong. Cho nên, bất cứ một nhiệm vụ gì chưa cần kíp mà đặt ra lúc này có thể tổn hại cho nhiệm vụ phản đế thì phải gác lại để giải quyết sau". 
Quyết định chuyển hướng chiến lược của Hội nghị Trung ương 8, rõ ràng là sự hoàn chỉnh quá trình chuyển hướng chiến lược được bắt đầu từ Hội nghị Trung ương 6 (tháng 11-1939), đồng thời là sự trở về với tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc được khẳng định trong Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt (tháng giêng năm 1930). Cần nhận rõ, một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đó là sự vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, thông qua vai trò của lãnh tụ Hồ Chí Minh và được các học trò của Người bổ sung, phát triển và tổ chức thực hiện một cách xuất sắc, đặc biệt là vai trò của đồng chí Trường Chinh. Đồng chí Trường Chinh người khởi thảo Nghị quyết Trung ương 8 - một nghị quyết đóng vai trò hết sức quan trọng trước một quyết định chiến lược mang ý nghĩa lịch sử.
Như vậy, trong tư duy chiến lược của đồng chí Trường Chinh đã tụ hội được tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân với những dự báo đúng đắn về tình thế cách mạng trực tiếp và thời cơ lịch sử cho khởi nghĩa giành chính quyền. 
Ngày 07-5-1944, để đẩy mạnh hơn nữa việc chuẩn bị khởi nghĩa, lấy danh nghĩa Tổng bộ Việt Minh, Tổng Bí thư Trường Chinh viết Chỉ thị “Sửa soạn khởi nghĩa”. Để đưa Chỉ thị quan trọng này vào quần chúng cả nước, bắt đầu từ trước đó, trên báo Cờ giải phóng xuất hiện một loạt bài, tập trung giải quyết vấn đề này dưới tiêu đề chung “Sửa soạn khởi nghĩa”. Để quán triệt sâu rộng hơn nữa tinh thần bản Chỉ thị, đồng chí Trường Chinh đã viết bài “Hãy nắm lấy khâu chính” đăng trên báo Cờ giải phóng, số 6 (ngày 25-7-1944), tóm tắt thành 5 việc cốt yếu để thi hành Chỉ thị nói trên của Tổng bộ Việt Minh. Đồng chí yêu cầu các địa phương ra sức phát triển các tổ chức tự vệ, tổ chức thêm bộ đội chiến đấu; huấn luyện thêm cán bộ quân sự; tìm hết cách sắm sửa vũ khí trang bị cho lực lượng vũ trang, vận động binh lính; làm cho chiến thuật khởi nghĩa phổ biến trong các tổ chức cách mạng và trong nhân dân. Bằng giác quan chính trị nhạy bén, đồng chí Trường Chinh phát hiện hàng loạt vấn đề liên quan đến nhiệm vụ sửa soạn khởi nghĩa để định hướng và chỉ đạo thực hiện từng nhiệm vụ cụ thể giúp cho người đọc của Cờ giải phóng hiểu rõ rằng, nhiệm vụ sửa soạn khởi nghĩa trở thành nhiệm vụ trọng tâm của cách mạng Việt Nam.
Trong bài “Phải tiến gấp” đăng trên Cờ giải phóng, số 6, ngày 28-7-1944, đồng chí kêu gọi : “Các chiến sĩ cách mạng Đông Dương! Các giới đồng bào yêu nước cùng thời cuộc trong ngoài hết sức có lợi cho ta. Dịp tốt ngàn năm có một đang lại. Hãy tiến gấp! Hãy kíp sửa soạn khởi nghĩa theo chỉ thị đã ra. Các đồng chí hãy kiên nhẫn và mạnh dạn thuyết phục đồng bào. Hãy thi nhau phát triển tổ chức; thi nhau đẩy mạnh phát triển đời sống quần chúng. Vận mệnh các dân tộc Đông Dương đã đặt trong tay chúng ta. Phải hy sinh, phải chiến đấu. Phải kiên quyết, tích cực. Bỏ lỡ cơ hội là một tội ác. Phải sẵn sàng đón lấy thời cơ và chuẩn bị đủ điều kiện tóm lấy nó”(3).
Khi nhận được tin báo có dấu hiệu chuẩn bị đảo chính lật đổ Pháp để toàn quyền thống trị Đông Dương của quân Nhật, Tổng Bí thư Trường Chinh lập tức triệu tập Hội nghị mở rộng Ban Thường vụ Trung ương Đảng tại làng Đình Bảng, Từ Sơn (Bắc Ninh) vào đêm 09-3-1945. Nội dung cuộc họp quan trọng này được thể hiện đầy đủ trong bản Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” do Tổng Bí thư Trường Chinh khởi thảo và hoàn chỉnh. Ngày 15-3-1945, Tổng Bí thư Trường Chinh chỉ đạo Mặt trận Việt Minh phát động Cao trào kháng Nhật, cứu nước. Để đẩy mạnh hơn nữa nhiệm vụ chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang, từ ngày 15 đến 20-4-1945, Tổng Bí thư Trường Chinh triệu tập và chủ trì Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, tại Hiệp Hòa, Bắc Giang (thuộc ATK2). Đây là Hội nghị quân sự quan trọng đầu tiên của Đảng nhằm giải quyết nhiệm vụ quân sự - nhiệm vụ quan trọng và cần kíp nhất của Đảng lúc này. Thực hiện Chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Trường Chinh và Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị toàn quốc của Đảng và Quốc dân đại hội để quyết định phát động tổng khởi nghĩa và thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng.
Sau Hội nghị Trung ương 8, Tổng Bí thư Trường Chinh nêu một số việc cần làm để thi hành Nghị quyết Trung ương, đó là tuyên truyền, phổ biến tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 đến tận chi bộ; tổ chức việc thi hành Nghị quyết của Đảng; làm cho quần chúng do kinh nghiệm bản thân mà nhận thấy chính sách mới của Đảng là duy nhất và nhận thấy khẩu hiệu của Đảng là của mình; phải ra sức đào tạo cán bộ để có người đủ năng lực đem chính sách mới của Đảng thi hành trong quần chúng; kiên quyết tẩy trừ bệnh “tả khuynh”, cô độc, hẹp hòi làm cho Đảng xa rời quần chúng, đồng thời phải chống bệnh “hữu khuynh”… Nhưng, để đường lối, chính sách mới của Đảng có thể đi vào cuộc sống, một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Tổng Bí thư là vấn đề xây dựng Đảng vững mạnh. Bởi vậy, ngay sau Hội nghị Trung ương 8, với bút danh Thiết Tâm, Tổng Bí thư viết bài “Củng cố Đảng” đăng trên báo Giải phóng, số 2, tháng 6-1941, bàn về vấn đề cán bộ và vấn đề sinh hoạt chi bộ. Ngày 21-12-1941, Tổng Bí thư triệu tập cuộc họp Ban Thường vụ Trung ương Đảng và ra Thông cáo “Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và trách nhiệm cần kíp của Đảng” gửi các cấp bộ đảng. Tiếp đó, vào giữa tháng 01-1942, đồng chí Trường Chinh viết gửi Ban Tuyên truyền huấn luyện Trung ương tài liệu “Chiến tranh Thái Bình Dương và cách mạng giải phóng dân tộc ở Đông Dương” để kịp thời uốn nắn một số lệch lạc trong nội bộ Đảng, giúp toàn Đảng nhận định đúng tình hình và xác định những nhiệm vụ cần kíp của cách mạng.
Về công tác tuyên truyền, sau một thời gian chuyển vào hoạt động bí mật ở các vùng phụ cận Hà Nội và về quê, giữa năm 1940, đồng chí Trường Chinh bắt liên lạc được với Xứ uỷ. Sau đó, đồng chí hoạt động chủ yếu ở các vùng Bắc Ninh, Bắc Giang, Phúc Yên, Đông Anh,… vừa chỉ đạo, vừa xây dựng cơ sở của các an toàn khu (ATK), vừa ổn định hệ thống tổ chức và cơ sở cho các cơ quan tuyên truyền của Đảng. Thời gian này, đồng chí chỉ đạo tiếp tục xuất bản báo Giải phóng, cơ quan ngôn luận của Xứ uỷ và trực tiếp làm chủ bút của báo. Trên cương vị Tổng Bí thư, đồng chí cho thành lập, chỉ đạo và viết bài cho các cơ quan báo chí của Đảng. Thông qua các tờ báo này, Tổng Bí thư truyền đạt nhận định về thời cuộc, truyền đạt đường lối, chủ trương của Đảng, tổ chức và uốn nắn phong trào cách mạng… Tháng 10-1941, đồng chí trực tiếp phụ trách Tạp chí Cộng sản - cơ quan lý luận và chính trị của Trung ương Đảng; tháng 01-1942, phụ trách báo Cứu quốc - cơ quan ngôn luận của Tổng bộ Việt Minh. Tháng 10-1942, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định ra báo Cờ giải phóng - cơ quan tuyên truyền, cổ động của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, do Tổng Bí thư trực tiếp phụ trách. Báo Cờ giải phóng số 1 ra ngày 10-10-1942 và kéo dài đến ngày 18-11-1945. Báo Cờ Giải phóng thực sự trở thành công cụ tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể và tổ chức tập thể.
Thực hiện chủ trương muốn cho sự tuyên truyền kịp thời và không bị gián đoạn, mỗi khi các đảng bộ mất liên lạc với nhau thì mỗi đảng bộ địa phương phải tìm cách ra báo chí tuyên truyền. Ít nhất là các ban Tỉnh uỷ phải có ban tuyên truyền chuyên môn xuất bản báo riêng ở trong tỉnh để tuyên truyền cho kịp thời, Tổng Bí thư chỉ đạo các địa phương đẩy mạnh công tác báo chí tuyên truyền để tạo sự đồng bộ với sự phát triển của tổ chức đảng và quần chúng khắp cả nước. Vì vậy, một loạt báo địa phương đã ra đời, góp phần tích cực và kịp thời vào việc tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và thông báo những biến đổi mau chóng của tình hình trong nước và quốc tế đến nhân dân. Do những hoạt động tích cực và bằng những biện pháp toàn diện của Tổng Bí thư, Ban Thường vụ Trung ương Đảng và các Xứ uỷ, các tổ chức đảng được củng cố, các văn kiện của Đảng đã được phổ biến tới các đảng bộ, chi bộ địa phương, tới các đảng viên và quần chúng cách mạng. Đến đầu năm 1942, Chương trình, Tuyên ngôn của Việt Minh và thư của đồng chí Nguyễn Ái Quốc (ngày 06-6-1941) đã vào đến Sài Gòn và Hậu Giang. Tình hình đó tạo ra khí thế cách mạng mới, một phong trào cách mạng mới trong cả nước.
Điều đó cho thấy, thắng lợi của cách mạng không tự nó đến mà phải chủ động, tích cực giành lấy nó. Tư duy chiến lược của đồng chí Trường Chinh trong thời điểm bước ngoặt này là rất khéo lợi dụng những điều kiện thuận lợi do chiến tranh diễn ra trên phạm vi thế giới và trong nước tạo ra, mà ra sức chuẩn bị khởi nghĩa. Mặt khác, tư duy chiến lược của đồng chí Trường Chinh không chỉ thể hiện ở tư duy chính trị thành thục mà còn thể hiện ở tư duy quân sự nhạy bén.
Như vậy, vấn đề chọn thời cơ, nắm thời cơ và chớp thời cơ tiến hành tổng khởi nghĩa toàn quốc đã được Đảng ta, Bác Hồ và Tổng Bí thư Trường Chinh vận dụng tài tình trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đó là vấn đề chọn thời cơ mà cuộc khởi nghĩa nổ ra đúng lúc, làm cho kẻ địch bất ngờ, trở tay không kịp. Chỉ trong 15 ngày, Cách mạng Tháng Tám thành công, giành chính quyền về tay nhân dân đối với hầu hết các địa phương trong cả nước. Đó là một trong những thành công nổi bật của tư duy chiến lược tài năng và bản lĩnh chính trị vững vàng của Tổng Bí thư Trường Chinh.
Vai trò của đồng chí Trường Chinh trong kháng chiến chống thực dân Pháp 1946-1954
Trên cương vị là Tổng Bí thư, đồng chí Trường Chinh không chỉ chú trọng chỉ đạo những công tác chung mà còn rất quan trọng chỉ đạo công tác quân sự. Nhiều hội nghị quân sự đồng chí Trường Chinh trực tiếp chủ trì với cương vị thay mặt Ban Chấp hành Trung ương lúc bấy giờ. 
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công - bước ngoặt vĩ đại của lịch sử dân tộc ta, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, Tổng Bí thư Trường Chinh đã cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng kịp thời khái quát những kinh nghiệm được tập dượt qua những cao trào trước đó, trong việc ra sức xây và thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc, nắm bắt thời cơ, chủ động tiến hành Tổng khởi nghĩa cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công rực rỡ.
Toàn quốc kháng chiến toàn quốc bùng nổ (ngày 19-12-1946), trên cương vị là Tổng Bí thư của Đảng, đồng chí Trường Chinh là một trong những nhà lãnh đạo chủ yếu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Tác phẩm "Kháng chiến nhất định thắng lợi" của Tổng Bí thư Trường Chinh đã bổ sung, phát triển sáng tạo đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mạnh nhân dân là chính. Tác phẩm này có vị trí đặc biệt quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển đường lối kháng chiến, khơi dậy sức mạnh toàn dân tộc và khẳng định ý chí chống xâm lược, giành độc lập dân tộc. Trong thực tiễn, đồng chí Trường Chinh không những chú trọng chỉ đạo nhiệm vụ kháng chiến, mà còn hết sức chú ý đến mặt kiến quốc, từng bước thực hiện khẩu hiệu "Người cày có ruộng", chuẩn bị những tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Từ những chủ trương, đường lối đúng đắn đó, cùng với thực tiễn sinh động, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta đã giành thắng lợi to lớn, ghi dấu ấn đậm nét trong lịch sử dân tộc ta.
Năm 1951, tại Đại hội lần thứ II của Đảng, với "Luận cương về cách mạng Việt Nam", đồng chí Trường Chinh đã phát triển khái niệm cách mạng tư sản dân quyền thành khái niệm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; đề ra một hệ thống lý luận, phương châm chiến lược và sách lược của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tại Hội nghị Trung ương 4 khoá II (tháng 1- 1953), Tổng Bí thư Trường Chinh nêu rõ phương châm chỉ đạo kháng chiến của Đảng: “Ta không chủ quan, khinh địch, không nóng vội, không mạo hiểm. Đánh ăn chắc, tiến ăn chắc. Chắc thắng thì kiên quyết đánh cho kỳ thắng. Không chắc thắng thì kiên quyết không đánh. Nếu chủ quan mạo hiểm mà một lần thua nặng, thì sẽ tai hại lớn. Chiến trường của ta hẹp, người của ta không nhiều, nên nói chung ta chỉ có thắng chứ không được bại, vì bại là hết vốn”. Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, đồng chí Trường Chinh đã có những đóng góp to lớn góp phần chèo lái con thuyền cách mạng nước nhà. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, trong điếu văn tại lễ truy điệu đồng chí Trường Chinh đã đánh giá: ''…Vai trò của đồng chí nổi bật là một trong những người lãnh đạo kiệt xuất đã đưa Cách mạng Tháng Tám đến thành công và đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi cuối cùng”, “đồng chí đã có nhiều đóng góp lớn vào sự lãnh đạo tập thể của Ban Chấp hành Trung ương Đảng trong những năm kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”(4).
Những cống hiến của Tổng Bí thư Trường Chinh trong công cuộc đổi mới 
Ngày 14-7-1986, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương đặc biệt bầu đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư của Đảng (5).
Nhận rõ trọng trách ở vị trí mới trước sự chờ đợi của toàn Đảng cũng như toàn dân ở thời điểm thật ngặt nghèo của lịch sử đất nước và dân tộc, đồng chí Trường Chinh đã làm hết sức mình chuẩn bị cho Đại hội VI của Đảng. Nhiều suy tính, quan điểm, khuynh hướng khác nhau đòi hỏi được quy về một mối. Đồng chí Trường Chinh đã tổ chức làm việc chặt chẽ dù quỹ thời gian chuẩn bị cho Đại hội rất eo hẹp. Đồng chí vừa nghe những thông tin khoa học, vừa nắm bắt tình hình cụ thể của các ban, các ngành và các địa phương, nhờ đó mà tìm ra những kết luận thoả đáng, thích hợp, làm cơ sở cho việc hoàn thiện Báo cáo chính trị của Đại hội VI.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, đồng chí Trường Chinh là người lát những viên gạch đầu tiên, đặt nền móng cho sự nghiệp vĩ đại ấy. Chính trong thời điểm phức tạp nhất của hoàn cảnh quốc tế, cùng với những khó khăn của đất nước ta, trên cương vị là Tổng Bí thư, với tư duy chính trị lão luyện, với trí tuệ sắc sảo, đồng chí Trường Chinh đã sớm nhận rõ xu thế phát triển của thời đại, nắm vững thực trạng của đất nước và yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, cùng Trung ương Đảng và Bộ Chính trị Đảng ta kịp thời đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Những quan điểm đổi mới tư duy mà đồng chí là người đầu tiên đề xuất đã trở thành nền tảng phương pháp luận cho việc nhận thức và giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn của công cuộc đổi mới.
Đồng chí Trường Chinh là người đầu tiên đưa ra phạm trù đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy kinh tế. Chỉ đổi mới tư duy kinh tế, đời sống nhân dân mới được cải thiện và nâng cao thì mới lấy lại niềm tin vào công cuộc đổi mới. Đổi mới tư duy kinh tế có hiệu quả sẽ tạo điều kiện cho đổi mới chính trị. Nhưng theo đồng chí, không phải chờ đổi mới tư duy kinh tế xong mới bắt đầu đổi mới hệ thống chính trị, mà phải tính toán bước đi thích hợp sao cho quá trình đổi mới từng bước hệ thống chính trị, không gây nên những biến động chính trị.
Chính trên ý nghĩa ấy, trong bài phát biểu tại Hội nghị Trung ương 8 khóa V, đồng chí Trường Chinh đã chỉ rõ mối quan hệ giữa quản lý kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị: "chuyển sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa, một vấn đề có tầm quan trọng quyết định, đó là tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ. Cần tiến hành ngay việc đổi mới và kiện toàn tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ, trước hết đối với những bộ phận liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh". Đồng chí cho rằng, chuyển sang cơ chế mới, nếu không làm như vậy thì đất nước khó vượt qua và thoát khỏi tình hình khó khăn gay gắt.
Như vậy, cuộc đấu tranh để xóa bỏ mô hình kinh tế hiện vật và cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp chuyển hẳn sang mô hình kinh tế mới, cơ chế quản lý mới không phải là quá trình đơn giản có thể giải quyết được trong một sớm một chiều. Đó là một quá trình đấu tranh với những quan điểm, cách nghĩ, cách làm cũ lỗi thời, bảo thủ, trì trệ với những quan điểm đổi mới và cách nghĩ, cách làm đúng đắn, sáng tạo. 
Trong một thời điểm bước ngoặt, tất yếu sẽ xuất hiện các nhân vật lịch sử có ý chí lớn, có tư duy nhạy bén và có trí tuệ lỗi lạc để giải quyết các vấn đề trọng đại mà cuộc sống đặt ra. Trường Chinh là con người như thế. Trong quá trình đổi mới tư duy, đồng chí chủ trương bắt đầu đổi mới từ kinh tế mà không bắt đầu từ đổi mới chính trị. Thực tế Việt Nam lúc này đòi hỏi đồng chí Trường chinh và các đồng chí của mình phải làm như vậy. 
Đồng chí Trường Chinh là một nhà lý luận nắm vững nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, luôn nắm vững quan điểm thực tiễn của chủ nghĩa duy vật biện chứng, từ thực tiễn mà tìm ra chân lý, góp phần xây dựng đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng. Đồng chí Trường Chinh là người có tinh thần “chí công vô tư”, luôn coi trọng chân lý, không hề chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa cá nhân, ra sức xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong tập thể lãnh đạo, đoàn kết cán bộ, đoàn kết nhân dân. Đồng chí là một người cộng sản mẫu mực, một nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng nước ta. Những cống hiến to lớn của đồng chí cho sự nghiệp của Đảng, của dân tộc mãi được trân trọng vẫn còn nguyên giá trị cho hôm nay và mai sau, đặc biệt là vào thời điểm toàn Đảng ta đang nỗ lực thực hiện nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế và nhiệm vụ then chốt là chỉnh đốn, xây dựng Đảng nhằm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ phát triển mới./.
---------------------------------------
(1) Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, P05-01-64
(2) Chính sách mới của Đảng, lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, P56-01-1096
(3) Trường Chinh: Tuyển tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr. 208
(4) Điếu văn do đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đọc tại lễ truy điệu đồng chí Trường Chinh, ngày 05-10-1988, xem Trường Chinh - một nhân cách lớn, một nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 16
(5) Biên bản tại Hội nghị bất thường Ban Chấp hành Trung ương, ngày 14-7-1986. Lưu tại kho Lưu trữ Trung ương Đảng P11-05-153
Lê Quang VĩnhPhó Chánh Văn phòng Trung ương Đảng
Nguồn lấy: Tạp Chí Cộng Sản

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm, làm việc tại tỉnh Nam Định

Cùng đi với Tổng Bí thư có các đồng chí: Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương; Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương; Nguyễn Văn Nên, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Trung ương; cùng nhiều đồng chí lãnh đạo các ban, bộ, ngành, cơ quan Trung ương.

Đồng chí Đoàn Hồng Phong, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Nam Định đã báo cáo Tổng Bí thư những kết quả nổi bật của tỉnh trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, công tác xây dựng Đảng năm 2016 và phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm 2017.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, các nghị quyết của Trung ương và Nghị quyết Đại hội XIX Đại hội Đảng bộ tỉnh, Tỉnh ủy Nam Định đã ban hành 5 nghị quyết chuyên đề nhằm cụ thể hóa mục tiêu xây dựng tỉnh nông thôn mới trước năm 2020, tạo bước phát triển đột phá về kinh tế - xã hội. Trong đó, Nam Định tập trung cải cách hành chính, thu hút đầu tư; phát triển thành phố Nam Định thành trung tâm vùng Nam đồng bằng sông Hồng; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn phát triển mới.

Năm 2017, Nam Định phấn đấu hoàn thành ở mức cao nhất các nhiệm vụ, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, tạo đà thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX. Tỉnh tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình hành động thực hiện, đưa Nghị quyết Đại hội XII và các Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống; triển khai đồng bộ, toàn diện các nhóm nhiệm vụ, giải pháp về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII và Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Tỉnh phấn đấu nâng tổng số xã nông thôn mới lên 183 xã, thị trấn (88%), đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án, công trình trọng điểm như cầu Thịnh Long, Nhà máy nhiệt điện Hải Hậu I, Khu công nghiệp dệt may Rạng Đông…; thúc đẩy mạnh mẽ quá trình khởi nghiệp, hỗ trợ nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, tạo thuận lợi tối đa cho sản xuất kinh doanh, giải quyết việc làm cho người lao động, tăng thu cho ngân sách; tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, thu hút đầu tư vào nông nghiệp; phấn đấu đến năm 2020 tỷ lệ dân số nông thôn được cung cấp nước sạch đạt trên 95%; nâng tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 78,5% dân số.

Phát biểu với cán bộ chủ chốt của tỉnh, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, Nam Định có vị trí chiến lược quan trọng ở đồng bằng sông Hồng, là vùng “địa linh nhân kiệt”, có truyền thống văn hóa, lịch sử, khoa bảng, truyền thống yêu nước cách mạng kiên cường, nhân dân cần cù lao động sáng tạo.

Nam Định cũng có quá trình phát triển lâu dài với nhiều phong trào, điển hình tiên tiến, đóng vai trò quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, cả trong giai đoạn kháng chiến cũng như xây dựng, phát triển đất nước. Không phải ngẫu nhiên mà Nam Định sản sinh ra nhiều bậc sỹ phu yêu nước, nhà trí thức, nhà lãnh đạo nổi tiếng mà tiêu biểu mẫu mực là Tổng Bí thư Trường Chinh.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vui mừng nhận thấy, trong những năm đổi mới, Nam Định không ngừng nỗ lực phấn đấu vươn lên, bộ mặt nông thôn, thành thị có nhiều đổi mới. Năm 2016, trong điều kiện khó khăn chung, Nam Định đã thực hiện đạt và vượt 20/22 chỉ tiêu chủ yếu về kinh tế - xã hội, tổng sản phẩm GRDP của tỉnh tăng 7%, cao nhất kể từ năm 2011.

Đến nay Nam Định có tổng số 152 xã đạt chuẩn nông thôn mới (đạt 73%). Chỉ số năng lực cạnh tranh tăng nhanh, 16 bậc/năm. Nhiều dự án có tầm chiến lược được khởi động. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội tiếp tục phát triển toàn diện, năm 2016 là năm thứ 22 liên tiếp Nam Định được tặng Cờ thi đua “Đơn vị tiêu biểu xuất sắc” trong tốp dẫn đầu toàn quốc về thành tích giáo dục - đào tạo. Nhiều chỉ tiêu đạt cao hơn cả nước, Nam Định thực hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương.

Tổng Bí thư cũng lưu ý, so với tiềm năng, điều kiện tự nhiên, chính trị, truyền thống văn hóa, lịch sử… của Nam Định thì những kết quả đạt được chưa tương xứng, chưa đáp ứng yêu cầu, mong muốn của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong tỉnh. Thu nhập bình quân đầu người hiện mới đạt 42 triệu đồng, thấp hơn mức bình quân chung của cả nước. Thu ngân sách chỉ đáp ứng được khoảng 30% tổng số chi của tỉnh.

Tổng Bí thư đề nghị Nam Định cần phân tích, làm rõ nguyên nhân vì sao với nhiều tiềm năng, lợi thế như vậy mà các bước phát triển của Nam Định còn hạn chế so với các địa phương khác? Đây là điều rất đáng suy nghĩ. Nam Định cần quyết liệt, năng động, quyết tâm cao hơn nữa để phát triển đi lên, không cam chịu thua kém các tỉnh khác trong khu vực.

Về hướng phát triển thời gian tới, Tổng Bí thư gợi mở, với chỉ số năng lực cạnh tranh được cải thiện đáng kể, Nam Định cần chú trọng thu hút đầu tư, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Trong nông nghiệp cần tăng cường hợp tác, liên kết 4 nhà, nâng mức hạn điền, xây dựng cánh đồng mẫu lớn, tích tụ ruộng đất, ứng dụng công nghệ cao, phát triển công nghiệp chế biến… Trong quá trình đó cần chú ý phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

Tổng Bí thư chỉ rõ muốn phát triển kinh tế phải thực hiện tốt các chính sách xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội, “dân là vạn đại”, đồng thời chăm lo làm tốt công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng, công tác tổ chức, đặc biệt là công tác cán bộ. Nếu Đảng không vững mạnh, không lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt đúng đắn, nội bộ không đoàn kết thống nhất chặt chẽ, ý thức kỷ luật không nghiêm thì sẽ ảnh hưởng việc thực hiện các nhiệm vụ khác. Vậy nên xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, công tác cán bộ là then chốt của then chốt, bố trí cán bộ phải đúng, phải chặt… thiết thực vì sự phát triển của quê hương Nam Định.

Tổng Bí thư lưu ý, nhân kỷ niệm 110 năm ngày sinh đồng chí Trường Chinh, cần khơi dậy truyền thống, niềm tự hào của nhân dân Nam Định, đây là nguồn lực tinh thần, không chỉ có vật chất, cơ chế chính sách…; cần khơi dậy, giáo dục truyền thống yêu nước cách mạng, lịch sử văn hóa trong thanh niên, nhân dân.

Tổng Bí thư đã trả lời từng kiến nghị, đề xuất của Nam Định; ghi nhận những kiến nghị xác đáng xuất phát từ thực tiễn phát triển của địa phương để có ý kiến với Chính phủ, các bộ, ngành liên quan, nhằm tạo điều kiện về nguồn lực, cơ chế chính sách, giúp Nam Định ngày càng phát triển, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.

Buổi chiều, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đến thăm ngôi nhà số 7 phố Bến Ngự, thành phố Nam Định, nơi từng chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước, cơ sở liên lạc, tập trung để đưa thanh niên yêu nước xuất dương đi dự các lớp huấn luyện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đào tạo cán bộ cách mạng cho cả nước.

Tiếp đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã về dâng hương tại Nhà lưu niệm Tổng Bí thư Trường Chinh ở làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định - quê hương đồng chí Trường Chinh; dâng hương, dâng hoa tại tượng đài Tổng Bí thư Trường Chinh ở trung tâm thị trấn Xuân Trường.

Lễ dâng hương do Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Nam Định tổ chức và đây là một trong những hoạt động kỷ niệm 110 năm ngày sinh Tổng Bí thư Trường Chinh (09-02-1907 - 09-02-2017).

Tham dự buổi lễ có nhiều Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, lãnh đạo nhiều ban, bộ, ngành, cơ quan Trung ương, tỉnh Nam Định, huyện Xuân Trường, xã Xuân Hồng và đông đảo bà con nhân dân địa phương.

Chiều cùng ngày, tại thành phố Nam Định, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đến thăm và nói chuyện với cán bộ, giảng viên, học viên, nhân viên Trường Chính trị Trường Chinh.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh tầm quan trọng và ý nghĩa sâu sắc của việc học tập, nghiên cứu lý luận, đặc biệt là cán bộ, đảng viên càng phải học tập lý luận. Như V.I. Lê-nin từng nói: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”.

Còn Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”.

Trường Chính trị Trường Chinh được thành lập khá sớm, trải qua hơn 60 năm xây dựng, trưởng thành, trường đã luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng kiến thức lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ của tỉnh. Đặc biệt từ năm 1999 đến nay, trường vinh dự mang tên Tổng Bí thư Trường Chinh, nhà lãnh đạo kiệt xuất của Đảng, nhà lý luận, nhà tư tưởng, nhà báo, nhà thơ, nhà hoạt động cách mạng… Ở cương vị nào, đồng chí Trường Chinh cũng nổi bật với tư cách là nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng, người con ưu tú của quê hương Nam Định.

Đánh giá cao những thành tích mà Trường Chính trị Trường Chinh đã đạt được trong công tác giáo dục lý luận chính trị, Tổng Bí thư mong muốn nhà trường tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang, làm tốt công tác giáo dục đào tạo cán bộ, đảng viên, gắn lý luận với thực tiễn.

Trong điều kiện kinh tế thị trường, không ít cán bộ, đảng viên chưa chú trọng việc học tập lý luận, đặc biệt là chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng Việt Nam.

Tổng Bí thư nhắc nhở, việc học tập lý luận không được máy móc, giáo điều, mà phải vận dụng sáng tạo vào điều kiện thực tiễn Việt Nam. Tổng Bí thư chúc đội ngũ cán bộ, giảng viên, nhân viên Trường chính trị Trường Chinh không ngừng nỗ lực rèn luyện, phấn đấu nâng cao trình độ, kiến thức, hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, xứng đáng với ngôi trường mang tên Tổng Bí thư Trường Chính./.
Nguồn Tạp Chí Cộng Sản,BTV (tổng hợp từ TTXVN)

Việt Nam và Lào ký kết 4 văn kiện hợp tác quan trọng

Tham dự kỳ họp có đại diện lãnh đạo của 30 bộ, ngành, địa phương của hai nước Việt Nam và Lào.

Đây là lần đầu tiên Thủ tướng Chính phủ của hai nước đồng chủ trì Kỳ họp của Ủy ban liên Chính phủ về hợp tác song phương Việt Nam - Lào, thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của Lãnh đạo cấp cao hai nước trong việc triển khai có hiệu quả Kế hoạch hợp tác năm 2017.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhiệt liệt chào mừng Thủ tướng Thongloun Sisoulith và đoàn đại biểu Chính phủ Lào, nhấn mạnh quan hệ Việt Nam - Lào là mối quan hệ đặc biệt, có một không hai trên thế giới; khẳng định Việt Nam luôn làm hết sức mình để hợp tác giúp Lào trong công cuộc phát triển đất nước, thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ anh em thân thiết, phối hợp chặt chẽ hiệu quả tại các diễn đàn quốc tế và khu vực.

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh hai bên cần phối hợp để chuẩn bị thật tốt các hoạt động kỷ niệm 55 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao và 40 năm Ngày ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt Nam - Lào trong năm 2017.

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc cho biết, ngay sau kỳ họp này, Chính phủ Việt Nam sẽ quyết liệt chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp, đơn vị liên quan, phối hợp chặt chẽ với các bạn đối tác Lào, triển khai ngay và thực hiện có hiệu quả các quyết định tại Kỳ họp lần này.

Thủ tướng Chính phủ Lào Thongloun Sisoulith cảm ơn sự đón tiếp nồng hậu của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và Chính phủ Việt Nam, tin tưởng rằng kỳ họp sẽ tạo ra động lực mới, đưa hợp tác giữa hai nước ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả, góp phần quan trọng vào việc củng cố và tăng cường mối quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Lào - Việt Nam.

Thủ tướng Chính phủ Lào Thongloun Sisoulith nhấn mạnh năm 2017 có ý nghĩa rất quan trọng trong bối cảnh chuẩn bị kỷ niệm 55 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước và 40 năm Ngày ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Lào - Việt Nam; nhất trí sẽ phối hợp với phía Việt Nam để tổ chức sôi nổi, rộng khắp các hoạt động kỷ niệm; góp phần tuyên truyền sâu rộng về tình đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào, nhất là đối với thế hệ trẻ hai nước.

Tại kỳ họp, hai bên cũng đánh giá cao và vui mừng về kết quả hợp tác toàn diện giữa hai nước. Trong năm 2016, hai bên đã triển khai có hiệu quả các thỏa thuận cấp cao và thỏa thuận giữa các bộ, ngành, địa phương. Đặc biệt, hợp tác chính trị, đối ngoại, quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội, giao lưu nhân dân ngày càng được tăng cường và phát triển sâu rộng, lĩnh vực giáo dục đào tạo được đẩy mạnh. Hiện nay, đã có trên 14.000 sinh viên, học sinh của Lào học tập tại Việt Nam.

Tại kỳ họp này, hai bên đã đưa ra cơ chế mới trong điều phối thúc đẩy quan hệ hợp tác hai nước. Các doanh nghiệp của Việt Nam đã đầu tư vào Lào với hơn 400 dự án, có số vốn khoảng 3,7 tỷ USD.

Trong năm 2017, hai bên thống nhất tập trung thực hiện tốt chỉ đạo của hai Bộ Chính trị, thúc đẩy quan hệ chính trị-đối ngoại-an ninh quốc phòng, đầu tư, thương mại, mở rộng hợp tác đào tạo nguồn nhân lực, đầu tư các dự án hạ tầng giao thông kết nối hai nước, hợp tác quản lý sử dụng bền vững nguồn nước và các nguồn tài nguyên thiên nhiên..., cùng quyết tâm tổ chức tốt “Năm đoàn kết hữu nghị Việt Nam - Lào 2017,” kỷ niệm 55 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao và 40 năm Ngày ký Hiệp ước Hữu nghị và hợp tác. Trên tinh thần tin cậy lẫn nhau, hai nước ủng hộ và hợp tác tốt tại các tổ chức, diễn dàn quốc tế và khu vực.

Ngay sau kỳ họp, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và Thủ tướng Chính phủ Lào Thongloun Sisoulith đã chứng kiến lễ ký 4 văn kiện hợp tác gồm Thỏa thuận về kế hoạch hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Lào năm 2017; Biên bản Kỳ họp lần thứ 39 Ủy ban liên Chính phủ về hợp tác song phương giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Lào; Kế hoạch hợp tác năm 2017 giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam và Bộ Giáo dục và Thể thao Lào; Biên bản Thỏa thuận thành lập công ty liên doanh đầu tư Dự án xây dựng đường dây tải điện 500 kV Lào - Việt Nam.

Hai Thủ tướng đã chủ trì cuộc gặp gỡ báo chí thông báo kết quả của Kỳ họp lần thứ 39 Ủy ban liên Chính phủ Việt Nam - Lào và tham dự lễ trao danh hiệu cao quý của Chính phủ hai nước cho tập thể và cá nhân Văn phòng Ủy ban hợp tác hai nước có thành tích trong giai đoạn 2012 - 2015./.
Theo: TTXVN

Thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Lào phát triển toàn diện

Chiều 08-02, tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã tiếp Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Lào Thongloun Sisoulith nhân dịp sang Việt Nam tham dự và đồng chủ trì Kỳ họp lần thứ 39 Ủy ban liên Chính phủ Việt Nam - Lào.
 
 Chủ tịch nước Trần Đại Quang tiếp Thủ tướng Lào Thongloun Sisoulith nhân dịp sang dự Kỳ họp lần thứ 39 Ủy ban Liên Chính phủ về hợp tác song phương Việt Nam - Lào. Ảnh: TTXVN

Nhiệt liệt chào mừng Thủ tướng Thongloun Sisoulith - nhà lãnh đạo "xông đất" Việt Nam dịp Xuân Đinh Dậu 2017, Chủ tịch nước Trần Đại Quang chúc mừng những thành tựu to lớn, quan trọng trên các lĩnh vực đối nội và đối ngoại mà Đảng, Chính phủ và nhân dân Lào anh em đã đạt được trong năm 2016.

Đặc biệt, Chủ tịch nước Trần Đại Quang một lần nữa chúc mừng Lào đã hoàn thành xuất sắc cương vị Chủ tịch ASEAN 2016, qua đó, vai trò và vị thế của Lào không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế.

Chủ tịch nước Trần Đại Quang đánh giá cao kết quả Kỳ họp lần thứ 39 Ủy ban liên Chính phủ do hai Thủ tướng Việt Nam và Lào đồng chủ trì. Những nội dung và định hướng đã được thảo luận và thống nhất trong kỳ họp có ý nghĩa quan trọng giúp thúc đẩy các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp hai nước triển khai các thỏa thuận cấp cao.

Để tiếp tục phát huy tối đa tiềm năng và thế mạnh của mỗi nước, Chủ tịch nước Trần Đại Quang đề nghị Thủ tướng hai nước chỉ đạo các bộ, ban, ngành và địa phương khẩn trương triển khai các biện pháp cụ thể theo kết quả đã đạt được tại Kỳ họp lần thứ 39, bám chắc phương châm chỉ đạo tại cuộc họp hai Bộ Chính trị vừa qua.

Cùng đó, hai nước tiếp tục đẩy mạnh trao đổi đoàn cấp cao và các cấp một cách có hiệu quả; phấn đấu tăng nhanh kim ngạch thương mại hai chiều và nâng cao tính bổ trợ, liên kết giữa hai nền kinh tế; ưu tiên triển khai các dự án kết nối trọng điểm về năng lượng và giao thông vận tải; triển khai hiệu quả các cơ chế, chính sách nhằm kịp thời xử lý các các rào cản tồn tại; tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh và đầu tư tại Lào.

Chủ tịch nước Trần Đại Quang cũng đề nghị hai bên phối hợp chặt chẽ, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục về truyền thống quan hệ Việt Nam - Lào; phối hợp tổ chức tốt các hoạt động kỷ niệm 55 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao và 40 năm Ngày ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt Nam - Lào trong năm 2017, với nội dung sâu sắc, ý nghĩa thiết thực.

Cùng đó, hai bên cần kịp thời thông tin, phối hợp chặt chẽ, ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn quốc tế, khu vực, cũng như các cơ chế tiểu vùng; làm sâu sắc hơn tiến trình hợp tác, liên kết của Cộng đồng ASEAN, tăng cường đoàn kết, vài trò trung tâm của ASEAN và duy trì tiếng nói chung của ASEAN trong các vấn đề chiến lược của khu vực.

Chủ tịch nước Trần Đại Quang khẳng định chính sách nhất quán của Việt Nam luôn coi trọng và dành ưu tiên cao cho vịệc giữ gìn và phát huy mối quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào; luôn hết lòng ủng hộ mạnh mẽ và toàn diện công cuộc đổi mới, bảo vệ và xây dựng đất nước của Lào.

Chủ tịch nước Trần Đại Quang phấn khởi nhận thấy, hợp tác giữa hai nước trong năm 2016 đã đạt được nhiều kết quả tích cực; đồng thời tin tưởng trong năm mới 2017 và những năm tiếp theo quan hệ hai nước tiếp tục đạt được hiệu quả thiết thực hơn nữa, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mỗi nước.

Nhân dịp này, qua Thủ tướng Thongloun Sisoulith, Chủ tịch nước Trần Đại Quang chuyển tới Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Bounnhang Volachith và các đồng chí lãnh đạo cấp cao Đảng và Nhà nước Lào lời thăm hỏi sức khỏe, lời chúc năm mới an khang thịnh vượng.

Trân trọng cảm ơn Chủ tịch nước Trần Đại Quang dành thời gian tiếp, Thủ tướng Thongloun Sisoulith bày tỏ vui mừng sang thăm Việt Nam nhân dịp Xuân mới Đinh Dậu 2017.

Thủ tướng Thongloun Sisoulith chuyển tới Chủ tịch nước Trần Đại Quang lời thăm hỏi, lời chúc mừng năm mới của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Bounnhang Volachith và các đồng chí lãnh đạo cấp cao Đảng và Nhà nước Lào.

Thủ tướng Thongloun Sisoulith thông báo với Chủ tịch nước Trần Đại Quang về những kết quả nổi bật của Kỳ họp lần thứ 39 Ủy ban liên Chính phủ Việt Nam - Lào; khẳng định hai bên đã thống nhất tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được, cùng nhau phối hợp xử lý những tồn tại, giải quyết những vướng mắc, khó khăn, đưa hợp tác kinh tế Việt Nam - Lào đi vào chiều sâu, ngày càng hiệu quả để tương xứng với quan hệ chính trị giữa hai nước đã và đang phát triển hết sức tốt đẹp.

Cũng trong buổi chiều, tại Nhà Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đã tiếp Thủ tướng Thongloun Sisoulith. Thủ tướng Thongloun Sisoulith bày tỏ vui mừng dẫn đầu Đoàn đại biểu Chính phủ Lào sang Việt Nam tham dự Kỳ họp lần thứ 39 Ủy ban liên Chính phủ hai nước đúng vào dịp đầu Xuân mới Đinh Dậu 2017; đồng thời cảm ơn Chủ tịch Quốc hội đã dành thời gian cho cuộc tiếp, trân trọng chuyển lời thăm hỏi và chúc mừng năm mới của Chủ tịch Quốc hội Lào Pany Yathotou đến Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân.
 
 Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân tiếp Thủ tướng Lào Thongloun Sisoulith. Ảnh: TTXVN

Thủ tướng Thongloun Sisoulith bày tỏ cảm ơn về sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn, hiệu quả mà Việt Nam đã dành cho Lào từ trước đến nay; đồng thời thông báo với Chủ tịch Quốc hội về kết quả Kỳ họp lần thứ 39 Ủy ban liên Chính phủ Việt Nam-Lào; khẳng định Chính phủ Lào sẽ phối hợp chặt chẽ với Chính phủ Việt Nam chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương liên quan triển khai, thực hiện có hiệu quả các Thỏa thuận giữa Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước và các nội dung thỏa thuận tại Kỳ họp lần thứ 39 Ủy ban liên Chính phủ Việt Nam - Lào.

Thủ tướng Thongloun Sisoulith bày tỏ mong muốn Quốc hội Việt Nam ủng hộ trong việc thúc đẩy thực hiện những thỏa thuận giữa hai nước nhằm góp phần đưa quan hệ hợp tác về kinh tế - xã hội giữa Lào và Việt Nam không ngừng phát triển để ngày càng tương xứng với quan hệ chính trị giữa hai Đảng, hai nước đã và đang phát triển hết sức tốt đẹp.

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân nhiệt liệt chào mừng và chúc Thủ tướng Thongloun Sisoulith và các thành viên trong Đoàn đại biểu Chính phủ Lào lời chúc sức khỏe và hạnh phúc nhân dịp năm mới cổ truyền của Việt Nam. Đánh giá cao Thủ tướng Thongloun Sisoulith sang Việt Nam tham dự Kỳ họp lần thứ 39 Ủy ban liên Chính phủ Việt Nam - Lào, Chủ tịch Quốc hội khẳng định Quốc hội Việt Nam luôn quan tâm, theo dõi và vui mừng trước những thành tựu của nhân dân Lào anh em đã đạt được trong năm qua; tin tưởng chắc chắn rằng, với đà thắng lợi đó, Đảng, Chính phủ và nhân dân các dân tộc Lào anh em sẽ thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ VIII (giai đoạn 2016 - 2020).

Đánh giá cao những kết quả quan trọng của Kỳ họp lần thứ 39 Ủy ban liên Chính phủ Việt Nam - Lào, đặc biệt là lần đầu tiên được hai Thủ tướng đồng chủ trì, Chủ tịch Quốc hội khẳng định, Quốc hội Việt Nam sẽ phối hợp chặt chẽ với Quốc hội Lào tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi để Chính phủ hai nước triển khai hiệu quả các thỏa thuận cấp cao hai nước và các Hiệp định hợp tác giữa hai Chính phủ; tăng cường phối hợp giám sát, tạo điều kiện cho việc triển khai các dự án hợp tác đầu tư, thương mại giữa hai nước cũng như các nội dung mà hai Thủ tướng đã thống nhất tại Kỳ họp lần thứ 39, đóng góp cho việc thực hiện thắng lợi Kế hoạch hợp tác giữa hai Chính phủ năm 2017.

Nhân dịp này, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đã thông báo với Thủ tướng Lào Thongloun Sisoulith về kết quả hợp tác tốt đẹp và hiệu quả giữa hai Quốc hội hai nước thời gian qua. Đặc biệt, trong năm 2017, hai bên sẽ tích cực phối hợp nhằm tổ chức thành công các hoạt động kỷ niệm 55 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao, 40 năm Ngày ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt Nam - Lào./.
Nguồn Tạp Chí Cộng Sản,BTV/TTXVN

Bắc Ninh: Hàng vạn người đổ về dự hội Lim

Đến hẹn lại lên, Lễ hội vùng Lim diễn ra trong hai ngày 8-9/2 (tức 12, 13 tháng giêng) tại ba xã thuộc Tổng Nội Duệ xưa, nay là thị trấn Lim xã Nội Duệ và xã Liên Bão, huyện Tiên Du, Bắc Ninh.
Chính hội, tại khu vực trung tâm đồi Lim, hàng vạn du khách thập phương đổ về đây tham dự lễ hội.
Chính hội, tại khu vực trung tâm đồi Lim, hàng vạn du khách thập phương đổ về đây tham dự lễ hội.
Khu vực sân khấu chính thường xuyên diễn ra giao lưu hát quan họ được đông đảo du khách quan tâm hơn cả.
Bên cạnh khu vực trung tâm đồi Lim, các liên anh, liền chị hát quan họ mời trầu trên thuyền rồng trên hồ trước sân đình.
Bên cạnh khu vực trung tâm đồi Lim, các liên anh, liền chị hát quan họ mời trầu trên thuyền rồng trên hồ trước sân đình.
Chùa Hồng Ân (trên đồi Lim) cũng luôn chật ních du khách vào lễ phật.
Chùa Hồng Ân (trên đồi Lim) cũng luôn chật ních du khách vào lễ phật.
Trò chơi dân gian đấu vật cũng hấp dẫn không kém.
Trò chơi dân gian đấu vật cũng hấp dẫn không kém.
Du khách thích thú với trò chơi đu tiên.
Du khách thích thú với trò chơi đu tiên.
Một cụ già chăm chú lắng nghe các liền anh, liền chị hát quan họ trên thuyền rồng.
Một cụ già chăm chú lắng nghe các liền anh, liền chị hát quan họ trên thuyền rồng.
Sân khấu khu vực trung tâm kẹt cứng người.
Sân khấu khu vực trung tâm kẹt cứng người.
Nhiều du khách phải đứng lên cả ghế cao để theo dõi hát quan họ ở các lán trại.
Nhiều du khách phải đứng lên cả ghế cao để theo dõi hát quan họ ở các lán trại.
Gần trưa, biển người vẫn chen chân đổ về khu vực trung tâm đồi Lim tham dự lễ hội.
Gần trưa, biển người vẫn chen chân đổ về khu vực trung tâm đồi Lim tham dự lễ hội.
Các đô vật hăng máu tại hội Lim, Bắc Ninh
Nguồn: Báo Dân Trí ,Bá Đoàn - Mạnh Thắng