Thứ Năm, 9 tháng 2, 2017

Đám đồng đảng chuẩn bị gì cho Bùi Thị Minh Hằng trước khi ra tù?

Chỉ còn 3 ngày nữa, Bùi Thị Minh Hằng chính thức được ra tù (nguồn tin này đã được nhiều trang tin, Fb cá nhân của những người thân cận với Hằng lúc chưa bị bắt xác nhận). Bắc Truyển Nguyễn, người được cho là nguyên cớ và cũng chính là người mời gọi Bùi Thị Minh Hằng đến huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp để rồi sau đó xảy ra chuyện khiến Hằng phải lãnh bản án 3 năm tù giam cũng đã xác nhận điều này.
nbt
Và để đón chào sự “trở về” của Bùi Thị Minh Hằng, Truyển đã không quên tạo ra một món quà tặng ả. Stt mới đây trên Fb, Truyển đã loan báo về điều này như sau: “Đây là facebook của chị Bùi Thị Minh Hằng, chúng tôi làm cho chị Hằng.
Sau khi chị Hằng ra tù, chị sẽ quyết định sử dụng luôn hay thay đổi.
Xin mời kết bạn.
https://www.facebook.com/bui.thiminhhang.58?fref=ts”.
“Sau khi chị Hằng ra tù, chị sẽ quyết định sử dụng luôn hay thay đổi”. Điều này cho thấy Truyển đăng ký tài khoản Fb cho Hằng mà chưa được sự cho phép hay đồng ý từ Hằng.
Lí giải về một hành động tự ý và vi phạm các điều khoản sử dụng Fb này từ Bắc Truyển Nguyễn, có người cho rằng, đó đơn thuần là tình cảm mà đám đồng đảng giành cho Hằng. Và với riêng Truyển thì nó càng đặc biệt bởi dù sao chính Hằng là người đã vào tù thay cho Truyển và cũng vì Truyển mà phải vào tù. Về hành trình khiến Hằng vào tù, xin xem thêm: Tại đây. Đây cũng có thể xem là một cách lí giải cho việc tại sao không phải một ai đó mà Bắc Truyển Nguyễn là người sốt sắng nhất sau thông tin Bùi Thị Minh Hằng sắp được ra tù.
Tuy nhiên, xem chừng đó chưa phải là tất cả lí do khiến Nguyễn Bắc Truyển chuẩn bị một món quà khác người và hợm hĩnh đến thế.
Ai cũng biết rằng, sở dĩ cái tên Nguyễn Bắc Truyển được dư luận biết đến diễn ra trong thời gian Bùi Thị Minh Hằng hay lui tới huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp (quê hương của Truyển) để thực hiện những trò phá phách kiểu ăn vạ. Và với vai trò của một người đứng quan sát (ngư ông đắc lợi), sau những lùm xùm và sự vụ do Bùi Thị Minh Hằng gây ra, không ai khác chính Truyển là người tiên phong loan báo sự việc theo hướng một chiều và kêu gọi quốc tế, dư luận quan tâm và can thiệp.
Chưa hết, với mớ kiến thức pháp lý học chắp vá và cái bằng Luật sư hạng nhược tiểu, với sự giúp sức của một số luật sư tên tuổi, Truyển cũng học đòi tham gia bào chữa không công cho Hằng tại phiên sơ thẩm và phúc thẩm cách đây gần 3 năm!
Bằng một phương thức như thế, Truyển đã không chỉ định hình tên tuổi trong giới dân chủ mà thậm chí gã còn tạo được ít nhiều sự ảnh hưởng. Vậy nhưng, có một thực tế hết sức phũ phàng là sau ngày Bùi Thị Minh Hằng vào tù, có vẻ như tên tuổi, tiếng tăm của Truyển lại quay về con số không tròn trĩnh khi sự quên của dư luận đã đến với Truyển.
Mọi thứ với Truyển lại bắt đầu bùng phát lên khi Truyển nghe thông tin Hằng sắp được ra tù. Với mong muốn dựa hơi Hằng để nổi tiếng như trước và đảm bảo rằng, Hằng sẽ không gác kiếm, quy ẩn giang hồ, Truyển đã nghĩ ra trò đi tắt đón đầu hết sức hợm hĩnh ở trên.
Và kể ra thì Truyển cũng không phải dạng vừa trong việc bày trò ghi điểm với một ai đó gã cần và gã cần dựa dẫm vào. Nhưng nên nhớ rằng, với tính khí của mình, việc Bùi Thị Minh Hằng nhận Fb do Truyển lập ra để sử dụng là chuyện khó xảy ra. Cũng tin chắc rằng, Truyển thừa hiểu điều đó và đó cũng là lí do gã không quên rào đón rằng: “Sau khi chị Hằng ra tù, chị sẽ quyết định sử dụng luôn hay thay đổi”. Mục đích thực hiện một việc mà biết chắc sẽ không được đón nhận của Truyển vì thế là nhằm vớt vát và đánh bóng tên tuổi của bản thân trước một bước ngoặt mới!
Đó cũng là một ví dụ cho thấy sự bế tắc của đám dân chủ cơ hội và nửa mùa!
Nguồn: Việt Nam Thời Báo, An Chiến

Những kỷ lục khó đỡ của Giáo phận Vinh

“Vinh, một giáo phận đông nhất nhì Việt Nam có kỷ lục về lễ truyền chức cho 38 tân chức dịp bế mạc Năm Thánh Lòng Thương xót, nay lại có thêm kỷ lục mới về bổ nhiệm và thuyên chuyển linh mục với tổng số là 108”. Website chính thức của giáo phận Bùi Chu (Gpbuichu.org) đã đánh giá như thế về nhân việc Giáo hội Công giáo địa phận Vinh vừa có quyết định thuyên chuyển, bổ nhiệm 108 vị trí Linh mục trong Giáo phận – một con số mà chưa một Giáo phận nào trong 26 Giáo phận Công giáo tại Việt Nam đạt tới.
bc-1
Trong cách diễn đạt của mình, Website chính thức của giáo phận Bùi Chu (Gpbuichu.org) đã có ý cho rằng, sở dĩ đông như thế, nhiều như thế bởi Giáo phận Vinh là Giáo phận đông nhất nhì Việt Nam. Và đúng là trên thực tế, đông dân số (giáo dân) thì yêu cầu cần có Linh mục coi sóc và chăm lo phần hồn cho họ là tất yếu.
Đó cũng chính là nguyên cớ khiến cho phía giáo hội Công giáo gia tăng hoạt động đào tạo, thụ phong Linh mục và thường thì quá trình này quyết định tới việc số lượng thuyên chuyển, bổ nhiệm sẽ đông đảo hơn, nhiều hơn. (Bởi thông thường sau khi thụ phong cho các tân chức thì một điều tất yếu sẽ xảy ra là phải bố trí địa bàn mục vụ cho họ). Cho nên, nếu nói rằng, Giáo phận Vinh xác lập cùng lúc 02 kỷ lục thì e rằng chưa thực sự chuẩn xác bởi kỷ lục thứ hai chẳng qua là sự sẽ phải xảy ra có tính bắt buộc do điều thứ nhất chỉ lối!
Quay trở lại với “02 nội dung kỷ lục” của giáo phận Vinh theo đánh giá của Website chính thức của giáo phận Bùi Chu. Đúng là Giáo phận Vinh đông dân nhất nhì so với 25 giáo phận còn lại trong cả nước và chính xác là đông thứ hai sau Giáo phận Xuân Lộc hiện đang đứng chân trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Tuy nhiên, thực tế thì điều này không ảnh hưởng quá nhiều tới việc Giáo phận Vinh phải gia tăng đào tạo ồ ạt đến nỗi một khóa học tại Trường Đại chủng viện liên địa phận Vinh – Thanh thụ phong tới 38 tân chức như vừa qua. Nó cũng không ảnh hưởng tới việc phải thuyên chuyển, bổ nhiệm cùng lúc 108 vị trí Linh mục (trong đó bao gồm bổ nhiệm địa bàn mục vụ cho 38 tân chức.
Về lí do xin được giải thích ngắn gọn thế này: Nhìn vào quyết định thuyên chuyển, bổ nhiệm ngày 04/02/2017 do Giám mục địa phận Vinh Phao lô Nguyễn Thái Hợp ký thì rất nhiều vị trí được thuyên chuyển, bổ nhiệm mới trong đó là về “quản họ” hoặc “quản nhiệm chuẩn giáo xứ” (một hình thức biến tướng được cho là cách Giáo phận Vinh đối phó với quy định liên quan tách lập xứ họ đạo). Nghĩa là họ có thừa Linh mục làm nhiệm vụ quản xứ và buộc phải đẩy một số Linh mục xuống quản họ mới đủ địa bàn mục vụ.
Điều này cho thấy, Giáo phận Vinh không thiếu Linh mục đến nỗi phải đào tạo ồ ạt đến mức các Giáo phận khác xung quanh cho đó là kỷ lục? Mà thậm chí họ thừa đến nỗi phải vận dụng vào những hình thức chưa có tiền lệ.
Để giải thích cho việc đào tạo Linh mục ồ ạt của Giáo phận Vinh, cũng có ý kiến cho rằng, họ cần Linh mục để phát triển đạo lên những vùng mà đạo Công giáo chưa đứng chân. Và với một sứ vụ lớn lao như thế, việc cần đông Linh mục là tất yếu! Vậy nhưng, câu hỏi đặt ra là liệu có cần đông đến thế không và liệu có gì mâu thuẫn không khi hầu hết các linh mục được thụ phong chủ yếu được bố trí vào những vị trí quản họ hoặc quản nhiệm chuẩn giáo xứ như đã nói?
Câu hỏi này thêm một lần nữa, Giáo phận Vinh dường như đang tiến hành một cuộc chạy đua về số lượng mà mục đích thực chất đến nay vẫn là một ẩn số??? Số đông thông thường sẽ tạo ra sức mạnh nhưng đông nó cũng tiềm ẩn những nguy cơ bất hòa. Một miếng bánh dành cho một người ăn sẽ không sao nhưng khi chia cho người khác thì ngay lập tức từ miếng bánh đó sẽ sinh ra đủ chuyện! Thiết nghĩ đó là điều mà Giáo hội Công giáo địa phận Vinh cần tính toán để dừng ngay việc chạy đua những con số kỷ lục không cần thiết đang diễn ra!
Nguồn: Việt Nam Thời Báo, Chiềng Chạ

Đặng Hữu Nam – Người chăn chiên hay người mạo danh chúa trời để thần quyền thế tục

Antôn Đặng Hữu Nam là một linh mục của Giáo hội Công giáo Rôma. Từ khi về phụ trách giáo xứ Phú Yên, xã An Hòa (10/3/2014 đến nay), linh mục Đặng Hữu Nam đã có nhiều hoạt động đi ngược lại với tinh thần “sống tốt đời, đẹp đạo” của người công giáo, gây bất bình trong nhân dân và dư luận xã hội, làm mất hình ảnh của một vị linh mục – chủ chăn “nhân lành” của dân chúa, khiến cho bà con công giáo tại giáo xứ Phú Yên nào có được yên ổn làm ăn từ khi cha Nam về giáo xứ đến nay.
chanam
Từ ngày về làm Linh mục chăm lo đời sống tinh thần cho các Lương giáo ở đây Đặng Hữu Nam đã có những việc làm thể hiện “thần quyền” của bản thân thay vì “chăn chiên” như Chúa dạy, có thể điểm qua một số việc làm như:
 – Bắt buộc bà con giáo dân không cho các em nhỏ tham dự ngày tựu trường, buộc các em học sinh phải nghỉ học 1 tháng để gây áp lực với Nhà trường, chính quyền về các yêu sách của linh mục Nam.
– Linh mục Đặng Hữu Nam còn ra tay đánh ông Hồ Vĩnh Lai và cháu Nguyễn Văn Lực phải vào bệnh viện Quỳnh Lưu cấp cứu trong tình trạng cực kỳ nguy kịch (báo điện tử Nghệ An đã có bài ngày 21.11.2016).
– Linh mục Đặng Hữu Nam thường xuyên yêu cầu bà con giáo dân không được đi làm, không hành nghề đi biển mà phải tập trung ở Nhà thờ để nghe giảng đạo, viết Đơn thư khởi kiện. Những ai không nghe theo sẽ bị cắt phúc lợi, không được ban bánh thánh, không được rửa tội, không được Cha chúc phúc.
– Công văn 7533 của UBND Quỳnh Lưu ngày 7/10/2016 nhắc đến:
  1. LM Nam đã lợi dụng các cuộc lễ tại một số nhà thờ của các giáo xứ, giáo họ trên địa bàn Nghệ An để rao giảng, kích động, nói xấu Đảng, Nhà nước và những người theo Đảng, xuyên tạc chống phá chế độ.
  1. Thường xuyên có các hoạt động gặp gỡ, tiếp đón các số đối tượng là thành viên của tổ chức phản động “Việt Tân” và cho số này trú ngủ trong nhà thờ xứ như các đối tượng: Thái Văn Dung (Diễn Hạnh, Diễn Châu), Trần Minh Nhật (Lâm Hà, Lâm Đồng)…
  1. Lợi dụng sự cố môi trường do Fomosa gây ra để nói xấu trắng trợn nổ lực của các cơ quan, ban ngành, rao giảng nội dung sai trái, nói xấu chính quyền, kích động giáo dân gây phức tạp an ninh trật tự và ảnh hưởng tới cuộc sống, lao động sản xuất của người dân (tối 26 tháng 9 2016 tại giáo xứ Đông Yên, Kỳ Anh, Hà Tĩnh).
Các vụ biểu tình, kéo giáo dân từ Giáo xứ Phú Yên qua Hà Tĩnh để khiếu kiện, Linh mục Nam yêu cầu người Công giáo phải chạy xe máy thành hàng 4 hàng 5, có người ngồi sau cầm cờ để thị uy gây chú ý, phô trương thanh thế. Những hành động này đã bị lực lượng CSGT Hà Tĩnh xử lý VPHC theo Luật Giao thông và Nghị định, Thông tư hướng dẫn. Điều lưu ý ở đây là, việc chi trả các khoản phạt vi phạm giao thông này người dân Công giáo tham gia phải tự chi trả chứ Nhà thờ không chịu một khoản nào.
Thấy không thể tiếp tục việc buộc người dân dùng xe máy để di chuyển gây thanh thế, linh mục Nam lại chuyển qua phương thức khác là thuê Taxi. Cụ thể, ngày 18/10/2016 linh mục Đặng Hữu Nam của giáo xứ Phú Yên (Quỳnh Lưu, Nghệ An) thuê rất nhiều xe cho hơn 1.000 người đi từ Giáo xứ Phú Yên tới thị xã Kỳ Anh Hà Tĩnh để thị uy và tổ chức khiếu kiện. Nhưng khi đi được gần nửa đường các tài xế Taxi đều từ chối chở khách đi tiếp với nhiều lý do vì vùng đi đến là nơi đang có bão lụt, đồng thời các tài xế trên xe khi nghe các “hành khách” bàn với nhau về việc vung cờ, tung truyền đơn và cả biểu tình tại Kỳ Anh để gây bất ổn An ninh trật tự đều tỏ ra lo sợ vì có khả năng họ sẽ dính vào vòng lao lý, và cũng chưa chắc đã được thanh toán cước phí. Do đó, các lái xe đã thông báo cho nhau, và một số đã từ chối đi tiếp. Như vậy, việc các Tài xế Mai Linh không tiếp tục chở Giáo dân nữa bởi do họ tự ý thức được việc họ đang bị lợi dụng cho một hành động vi phạm pháp luật.
14650530_755976847875047_7031545252969889979_n
Khi bị từ chối chuyên chở, linh mục Đặng Hữu Nam đã ngay lập tức vu cáo lãnh đạo tập đoàn Mai Linh là có hành động chống lại Công giáo, gây tổn hại đến quyền lợi của người dân đi khiếu kiện. Tuy nhiên, nếu chú ý kỹ thì việc trước đó 1 Giáo xứ thuê hàng trăm xe để di chuyển với hơn 1000 người thì lãnh đạo Mai Linh đã có thể yêu cầu Tài xế không chuyên chở ngay từ đầu như thế Mai Linh vừa tránh mất tiếng, càng không thể vị vu cáo gây hại đến Công giáo và lại đỡ tốn tiền xăng xe di chuyển cả quảng đường; Doanh nhân thành đạt như ông Hồ Huy luôn biết cân đo thiệt hại để đưa ra đối sách vẹn toàn. Đồng thời, trực tiếp ông Hồ Huy đã có tuyên bố chính thức gửi đến linh mục Nam về vấn đề này, và linh mục Nam đã im lặng không có phát ngôn gì thêm.
Và theo ghi nhận từ Linh mục Lê Ngọc Thanh, tới ngày 04/09/2016, số tiền gửi về ủng hộ ngư dân miền Trung khởi kiện là 347,55 triệu vnđ + 8850 usd + 2050 aud + 300 € (Nếu tính hoàn toàn ra tiền Việt Nam thì được hơn 500 triệu). Trong vòng gần 4 tháng qua số tiền mà linh mục Đặng Hữu Nam đã nhận rất nhiều nhưng bà con Giáo dân ở đó đã được hưởng lợi gì chưa ? Đây là câu hỏi sẽ không một ai trong Giáo xứ Phú Yên dám nói khi “Thần quyền” Đặng Hữu Nam còn tại vị.
Nguồn: Việt Nam Thời Báo, Hồng Vũ.

Phản động lại tung tin thất thiệt về đổi tiền

Mới đầu xuân mới, lũ giòi bọ ba que lại tiếp tục tung tin thất thiệt, rằng Việt Nam sẽ đổi tiền vào ngày 6/2/2017 ngay sau tết Đinh Dậu. Một loạt trang mạng như “Thông tin hai chiều”, “Việt Nam News” đã đăng bài “TIN NÓNG: Việt Nam công bố mẫu tiền mới sẽ được đổi ngày 6/2/2017 ngay sau tết Đinh Dậu (Video)”. Rất tiếc, đã có một số người tiếp tay cho đám bất lương bằng cách share bài, tung lên mạng.
Thật ra, chiều tung tin thất thiệt về đổi tiền không mới và thể hiện sự bất lực của đám vong nô trước sự phát triển của đất nước, nhưng ít nhiều sẽ gây thiệt hại. Nhẹ thì nghi ngờ, nặng hơn chút thì rút tiền khỏi ngân hàng và tâm lý hoang mang là không tránh khỏi.
1-1
Bài viết xuyên tạc đó khẳng định “Việt Nam công bố mẫu tiền mới sẽ được đổi ngày 6/2/2017 ngay sau tết Đinh Dậu” và lập luận cực ngây ngô về lý do đổi tiền: “Bằng chứng đang hiển hiện là bất chấp thị trường bất động sản từ Bắc chí Nam vẫn tồn kho vài ba chục ngàn căn hộ cùng đất nền bao la, vẫn xuất hiện một dòng tiền chảy vào khu vực này trong những tháng qua. Bằng chứng rõ ràng hơn là xu hướng người dân đã rút tiền gửi tiết kiệm để mua đất đang tăng dần với lý do hết sức đơn giản “Ôm đất thì đất còn đó, chứ giữ tiền thì chẳng biết còn lại được bao nhiêu”, rồi dẫn chứng cực ất ơ như kẻ tâm thần phân liệt. Xin dẫn nguyên văn:
Một người bạn inbox yêu cầu dấu tên và FB. (t) là mẫu tự đầu tên của bạn ấy xác nhận tin là sự thật:
tôi có coi clip về vụ đổi tiền của bạn trong clip có đề cập đến đoạn người Trung Cộng hiện vô đây rất nhiều
t ở khu phố Tây đường Bùi Viện thì thấy đúng thật là những ngày tết gần đây những lượt khách du lịch ng TQ vô đây rất nhiều so với tết mọi năm thì đa phần là nhân viên làm việc về visa du lịch ngta nghỉ lễ nên hầu hết khách du lịch người Tây họ về nước chỉ có tết năm nay t cảm thấy có điều gì bất ổn những ngày cận tết mà hầu hết là khách du lịch TQ vô đây rất nhiều
t chỉ xác nhận hiện tại là lượng khách du lịch ng TQ hiện đang ở khu phố Tây nhiều hơn mọi năm trong khi khách du lịch Tây Âu thì họ đa phần đểu về nước
t coi xong clip về vụ đổi tiền thấy rất lo còn về thông tin khách du lịch TQ nhiều hơn bất thường mà t vừa xác nhận
t xin được giấu tên cũng như FB b đừng nêu ra”
Thật ra, đây cũng là tin vịt được xào xáo lại từ bài “Ngân Hàng NN công bố mẫu tiền mới in từ TQ đã chuyển hết về VN để phục vụ việc đổi tiền”, được đăng trên trang Tin Tức Hàng Ngày hô 5/12/2016. Chỉ có điều, não trạng của kẻ xào xáo ở tầm trẻ trâu hủi nô.
Tổ sư, làm cách mạng kiểu ba que thì có mà bốc cứt ăn vã. Tung tin “cách mạng” mà bịa đặt ngu ngốc như tác giả bài viết thì các anh chị bị đá đít là điều dễ hiểu.
Nhắc lại, hôm 5/12/2016 trang Tin Tức Hàng Ngày đăng bài “Ngân Hàng NN công bố mẫu tiền mới in từ TQ đã chuyển hết về VN để phục vụ việc đổi tiền” với nội dung cho là Việt Nam sắp đổi tiền do lạm phát. Bài viết còn cho biết, lượng tiền mới đã in xong ở Trung Quốc, đang chuẩn chuyển về Việt Nam, kèm theo mẫu tiền như hình dưới đây:
1459766843-ngan-hang-nha-nuoc-phat-hanh-tien-luu-niem-100-dong1459766843-ngan-hang-nha-nuoc-phat-hanh-tien-luu-niem-100-dong-1
Ngay sau khi bài viết kèm những hình ảnh “đồng tiền mới” được đăng, các “tinh hoa dân chủ” trong nước ngay lập tức nhảy vào chia sẻ và bình luận như đúng rồi.
Xem hình đồng tiền mà các anh chị dân chủ post lên làm minh chứng cho tờ “tiền mới được in từ Trung Quốc”, người hiểu biết sẽ phì cười vì biết kẻ viết bài là loại suy nghĩ bằng lỗ đít. Đơn giản, đây là đồng tiền lưu niệm mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành để kỷ niệm 65 năm thành lập Ngân hàng Nhà nước (6/5/1951 – 6/5/2016) và đó là loại tiền không có giá trị thanh toán, lưu thông.
Tờ tiền lưu niệm sẽ được phát hành ngày 6/5/2016 nhằm ghi nhận bước phát triển của ngành Ngân hàng, đồng thời tuyên truyền, quảng bá hình ảnh đất nước, lịch sử dân tộc và đồng tiền Việt Nam với đông đảo người dân và bạn bè quốc tế. xem hình dưới do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cung cấp:
Tờ tiền lưu niệm 100 đồng có kích thước to hơn các tờ tiền polymer thông thường với chất liệu cotton màu đỏ. Mặt trước in hình quốc huy, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, dòng chữ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, mệnh giá 100 đồng in đậm với logo 65 năm kỷ niệm thành lập Ngân hàng Nhà nước. Mặt sau in hình trụ sở Ngân hàng Nhà nước.
Được biết tờ tiền lưu niệm 100 đồng sẽ có giá bán 20.000 đồng/tờ (loại tờ rời) và 25.000 đồng/tờ (loại được bọc trong phong bao, kèm chú thích song ngữ Việt – Anh). Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng Thương mại sẽ tổ chức bán 2 loại tiền rộng rãi trên toàn hệ thống để phục vụ các cá nhân, tổ chức có nhu cầu. Đây là lần thứ 2 Ngân hàng Nhà nước phát hành tiền lưu niệm. Đợt phát hành lần thứ nhất là loại tiền lưu niệm mệnh giá 50 đồng kỷ niệm 50 năm thành lập Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (1951 – 2001).
Sơ lược như vậy để thấy não trạng dân chủ giòi bọ của đám lưu manh ba que cũng như đám dân chủ trĩ mồm ở trong nước mạt hạng đến thế nào.

Nguồn: Việt Nam Thời Báo, Vũ Khánh Sơn

Đằng sau nickname Người Buôn Gió là một nhóm chống phá?

Blogger Phạm Viết Đào vừa có một bài phân tích khá kỹ về Bùi Thanh Hiếu (Người Buôn Gió) qua loạt bài phỏng vấn Trịnh Xuân Thanh. Có nhiều vấn đề có lẽ thuộc loại nhạy cảm nên ông Phạm Viết Đào không nói thẳng ra “Người Buôn Gió” hiện nay bị một nhóm người nào đấy chuyên tấn công có định hướng vào cá nhân Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, gây mất đoàn kết nội bộ và phá hoại chế độ.
nbg-txt4-1
Khi những thế lực thù địch hồ hỡi với những thông tin về Trịnh Xuân Thanh đăng trên blog Người Buôn Gió thì con đường sống của Bùi Thanh Hiếu đang ngắn dần. Y đã bị các thế lực thù địch mua chuộc và khống chế trước Đại hội 12. Blog Người Buôn Gió trở thành địa chỉ các thế lực thù địch tung tin bôi nhọ các lãnh đạo Đảng, Chính phủ theo kiểu tuyên truyền chuyên nghiệp thâm độc của Adolf Hitler “mưa dầm thấm lâu” “chuyện giả nói mãi cũng thành sự thật”.
Xuất thân từ thằng ma cô, buôn bán ma tuý, Bùi Thanh Hiếu không phải là Julian Assange có đủ trình độ công nghệ để đánh cắp thông tin, đủ chữ nghĩa để viết một bài báo hoàn chỉnh. Nhằm che giấu động cơ của mình, nhóm người ẩn sau lưng nickname Người Buôn Gió đã bốn lần đặt vào miệng Bùi Thanh Hiếu cụm từ “có liên quan đến chính trị” trong một entry vu vơ về tên giang hồ Vũ Cận nào đấy.
Trước sau như một, mãi mãi Bùi Thanh Hiếu chỉ là tên tội phạm đường phố, không bao giờ “có liên quan đến chính trị”. Bản chất con người ai cũng tham sống sợ chết, nhất là trong hoàn cảnh éo le nuôi con nhỏ, không được cấp quốc tịch nên Bùi Thanh Hiếu không bao giờ dám to tiếng thách thức cả một hệ thống chính trị của một quốc gia nếu y không bị khống chế.
Hiện nay các cơ quan chức năng đang âm thầm truy bắt Trịnh Xuân Thanh. Vụ án PVC liên quan đến Trịnh Xuân Thanh sẽ làm sáng tỏ “Người Buôn Gió” là ai trong thời gian tới. Lịch sử tư pháp Việt Nam sẽ ghi nhận trong một giai đoạn phát sinh ra loại tội phạm tham ô, tham nhũng nhưng lớn tiếng mạt sát cá nhân lãnh đạo và chửi bới cả một thể chế. Đó là loại tội phạm được gọi tên là “nhóm lợi ích”!
Nguồn: Việt Nam Thời Báo,Hoàng Hải

Trí tuệ quản lý

 Lê Qúy Đôn cho rằng: “Phi nông bất ổn - Phi công bất phú - Phi thương bất hoạt - Phi trí bất hưng”

Có thể hiểu kinh tế tri thức là một nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Và trong nền kinh tế đó, tri thức đóng vai trò quyết định hàng đầu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia, bởi lẽ tri thức là bộ phận nguồn lực quan trọng nhất, quyết định nhất của lực lượng sản xuất hiện đại, mà trình độ phát triển của lực lượng sản xuất lại đóng vai trò quyết định sự phát triển xã hội.
Với nhận định, thời gian tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức; hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn; toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy mạnh, Đại hội Đảng lần thứ XII xác định cần nỗ lực tập trung: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hoà bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”(1).
Mặc dầu kinh tế Việt Nam trong hơn 30 năm qua đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận với chính sách đổi mới, chuyển sang kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Việt Nam đạt sự tăng trưởng nhanh trong những năm đầu thập kỷ 90 thế kỷ XX, tiếp đó, vượt qua tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính khu vực, tiếp tục tăng trưởng khá trong thập niên đầu thế kỷ XXI… Tuy nhiên, để tiếp tục bước đi cùng một nhịp với thời đại - thời đại tri thức và thông tin, cần đổi mới tư duy dựa trên phát triển trí tuệ con người, coi tri thức là nguồn gốc của mọi của cải; coi trọng tài sản trí tuệ hơn tài sản hữu hình; đội ngũ trí thức là chủ thể của nền kinh tế tri thức, và cũng chính họ là trụ cột của nền công vụ. Một nền kinh tế không dựa vào nguồn lực trí tuệ, không được quản trị tốt sẽ không có sức cạnh tranh trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay.
Trong nền kinh tế tri thức: trọng tâm của quản lý kinh tế cần chuyển từ quản lý nguồn lực vật chất (hữu hình) sang quản lý nguồn lực trí tuệ (vô hình), tức là chuyển sang quản lý tri thức và quản lý dựa trên tri thức, khơi dậy các năng lực sáng tạo, tạo ra tri thức mới và sử dụng có hiệu quả tri thức, biến tri thức thành giá trị. Từ đó, vai trò của chính phủ sẽ chuyển từ chức năng kiểm soát, chỉ huy sang chức năng kiến tạo phát triển, tức chức năng định hướng phát triển và chức năng bà đỡ cho nền kinh tế, tạo cơ hội bình đẳng cho mọi người sản xuất kinh doanh, chăm lo nuôi dưỡng các khả năng sáng tạo, phát triển các nhân tố mới. Như vậy, cần từ bỏ cung cách quản lý quan liêu, kiến tạo một nền công vụ hướng tới thúc đẩy quá trình đổi mới dựa trên sự “thiết lập hệ thống đổi mới sáng tạo trong toàn nền kinh tế, tạo sự liên kết hữu cơ khoa học - đào tạo - sản xuất kinh doanh, cơ chế tài chính, tín dụng thỏa đáng”; phát triển thị trường công nghệ, quỹ đầu tư mạo hiểm, các khu công nghệ cao, vườn ươm công nghệ, vườn ươm doanh nghiệp, phát triển hệ thống cụm tri thức (knowledge cluster) từ trung ương đến các vùng, các địa phương để hỗ trợ thúc đẩy việc tạo và nhanh chóng sử dụng tri thức sát với tình hình cụ thể; thực thi chính sách thỏa đáng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với từng giai đoạn phát triển, theo nguyên tắc bảo đảm hài hòa lợi ích của người sáng tạo, người sử dụng và lợi ích chung của xã hội, lợi ích của đất nước. Đổi mới sáng tạo (innovation) trở thành động lực chủ yếu của sự tăng trưởng và phát triển khi nó tạo ra những của cải và các giá trị mới. Điều đó đòi hỏi phải đầu tư cho vốn tri thức, phát triển vốn tri thức, không ngừng nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới trong mọi lĩnh vực, không loại trừ lĩnh vực quản lý nhà nước, để có được cách thức quản trị, điều hành mới, tạo những sản phẩm mới, khác biệt, thậm chí duy nhất. 
Để “xây dựng một nền công vụ chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch, hiệu quả vì nhân dân, phục vụ nhân dân, góp phần quan trọng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, phòng chống tham nhũng và bảo đảm sự thành công của công cuộc cải cách mà Đảng và Nhà nước ta đang quyết tâm thực hiện”(2) cần “phát huy trí tuệ tập thể”. Song, cũng cần ý thức rõ ràng rằng trí tuệ tập thể bao gồm các yếu tố cấu thành. Trong nền công vụ đó là “trí tuệ quản lý” - một hình thức biểu hiện đặc biệt của “trí tuệ tập thể”, một loại hình “trí tuệ chuyên môn” quản lý. Trí tuệ quản lý là sự tổng hợp đặc biệt một số phẩm chất trí tuệ xã hội và “phổ quát”, tổ hợp lô-gic và bản năng, với phong cách tư duy nổi trội là tính tổng hợp, phân tích và hữu dụng. Trí tuệ quản lý có ý nghĩa tác động to lớn đến hiệu quả của nền công vụ - hoạt động do công chức nhân danh nhà nước thực hiện theo quy định của pháp luật và được pháp luật bảo vệ nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân. Sự tác động đó tương ứng với tính thứ bậc của nền công vụ. Chức vụ càng cao thì cái giá phải trả cho các sai lầm quản lý cũng càng cao. Có sai lầm ảnh hưởng đến một cá nhân, một tập thể, có sai lầm mà có thể cả một dân tộc phải hứng chịu.
Phân tích đặc thù hoạt động chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức cho thấy trong hoạt động công vụ nảy sinh và hình thành các yếu tố cấu thành của “trí tuệ chuyên môn” như: năng lực và kỹ năng sử dụng hiệu quả các công cụ hoạt động; năng lực tư duy chiến lược sâu và linh hoạt cao, sáng tạo và độc đáo, phân tích lô-gic “phản biện sâu”; hoạch định và tổ chức thực hiện công việc khoa học, có tính tác nghiệp cao, cẩn trọng và tập trung; khả năng phán đoán, phòng ngừa rủi ro, đánh giá khách quan các hậu quả, quyết đoán nhanh trong điều kiện hạn chế về thời gian, trên cơ sở kết hợp với các yếu tố của tư duy trí tuệ xã hội như năng lực tương tác và phối hợp hiệu quả với các đồng nghiệp trong thực thi công vụ.
Người cán bộ, công chức hiện đại với “trí tuệ quản lý” cần là người có:
- Ý chí, nỗ lực quyết tâm; có tích luỹ kinh nghiệm, biết không ngừng trau dồi kiến thức và học hỏi để hoàn thiện mình. Năng lực lãnh đạo là cả một quá trình mà tại đó một cá nhân có ảnh hưởng lên những người khác để họ hoàn thành một mục tiêu và một hướng dẫn nào đó theo phương cách nối kết với nhau sao cho có hiệu quả nhất. Các nhà lãnh đạo thực hiện quá trình này bằng chính các kỹ năng chỉ huy của mình, chẳng hạn như lòng tin, sự tôn trọng, cách ứng nhân xử thế, tính cách, với tư duy sắc sảo của người lãnh đạo (có lô-gic + tầm nhìn), cảm nhận được thực tiễn và luôn đi thẳng vào vấn đề. 
- Có đủ năng lực, tinh thần trách nhiệm, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đặc biệt đối với cán bộ, công chức lãnh đạo phải là người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề trong những hoàn cảnh khó khăn; khi thất bại không hoang mang, khi thắng lợi không kiêu ngạo; luôn luôn giữ đúng kỷ luật.
- Thẩm thấu sâu sắc các giá trị cơ bản cơ bản của nền công vụ: bảo đảm hiệu lực và hiệu quả quản lý; tính trách nhiệm trước Nhà nước và trước nhân dân; tuân thủ pháp luật, thực hiện công bằng xã hội; tôn trọng cống hiến, công trạng và thành tích của công chức; bảo đảm quyền và nghĩa vụ của cán bộ, công chức.
- Có khả năng tiếp cận mới với các vấn đề về chính trị, kinh tế, hành chính, tư pháp, pháp lý, xã hội học, văn hóa dân tộc và sự dung hòa các nền văn hóa khác nhau, vấn đề quốc gia, dân tộc, quản trị công… trong thời đại tri thức, khi nhiều quan niệm, khái niệm thay đổi và xuất hiện mới. 
- Năng lực xác lập các mối quan hệ nhân quả và vấn đề then chốt (“mắt xích” quan trọng; khâu đột phá), mà tập trung vào giải quyết sẽ quyết định được các vấn đề khác.
- Khả năng mô hình hoá các quá trình, quy trình, dự báo (đoán định) được sự phát triển và các hệ quả của hoàn cảnh gắn liền với hoạt động của cơ quan, tổ chức để có cơ sở đưa ra các quyết định quản lý tương ứng.
- Hiểu biết sâu sắc các quan tâm, lợi ích, động cơ và tâm lý con người, năng lực lựa chọn cán bộ, công chức cho các vị trí chủ chốt, tập hợp, đoàn kết và tập trung nỗ lực tập thể cho việc giải quyết các vấn đề đặt ra.
- Năng lực thao tác một khối lượng rất lớn các dữ liệu luôn biến động trong xây dựng các kế hoạch dài hạn và ngắn hạn.
- Tư duy đánh giá phê phán, kỹ năng học tập qua “rút kinh nghiệm”, hiểu biết bản chất các nguyên tắc quản lý, tính cần thiết của các biện pháp cứng rắn và không thông thường trong quan hệ với cấp dưới để đảm bảo tính thứ bậc của nền công vụ.
- Từ điển Pratique du Francais 1987 định nghĩa rất gọn rằng: "Công vụ là công việc của công chức". Như vậy, người cán bộ, công chức cần đảm bảo những yêu cầu về tính chuyên nghiệp của đội ngũ công chức như: tinh thông nghiệp vụ; có các kỹ năng thuần thục để thực thi các nghiệp vụ đó; hiểu rõ và biết vận dụng những nguyên tắc quản lý điều hành như một khoa học và nghệ thuật; hiểu rõ và thực thi đúng quy chế công vụ.
- Đủ năng lực cảm nhận và thực hành các giá trị nhân văn của nền công vụ, khi định hình được tri thức văn hoá nền tảng, “cốt lõi”; xác định rõ phạm vi các khái niệm tinh thần - đạo đức cơ bản và đưa chúng trở thành các hành vi công vụ; xác định được các yếu tố thúc đẩy sự chuyển biến các giá trị nhân văn của giáo dục - giáo dưỡng vào hoàn thiện nhân cách cán bộ, công chức, trên tinh thần đảm bảo mỗi cá nhân sẽ ý thức được các giá trị cơ bản (nền tảng) của cá nhân trong quá trình phát triển nhân cách.
Piter Drucker, nhà quản trị học người Mỹ đã có nhận định rằng: trong thế kỷ XXI, cơ sở nền tảng (nguyên tắc) của hoạt động doanh nghiệp được chuyển từ “dựa trên tổ chức tối ưu hóa” sang “dựa trên tri thức và thông tin”, tức là phần lớn công việc được thực hiện bởi các chuyên gia “tư duy chiến lược”. Trong quản lý nhà nước, nguyên tắc đó cũng rất phù hợp. Dựa vào đó, cần ý thức được rằng: cần có cơ chế quản lý từ “trung tâm đầu não”, nơi nghiên cứu và dự báo các vấn đề mới nảy sinh, còn các đơn vị thừa hành vẫn tiếp tục thực hiện giải quyết các vấn đề đã đặt ra. Những vấn đề dự báo không chỉ có tính lâu dài, mà có thể có tính cấp thiết cần được giải quyết ngay.
Những tri thức và thông tin cần thiết để giải quyết những vấn đề xã hội có thể có được từ 2 nguồn: phương pháp “thử nghiệm” và nghiên cứu khoa học. Phương pháp thử nghiệm dựa trên lựa chọn ngẫu nhiên một trong các phương án giải quyết vấn đề và phân tích các kết quả đạt được. Sau một loạt các thử nghiệm sẽ hình thành kinh nghiệm nhất định (tích cực và tiêu cực). Kinh nghiệm đó sẽ trở thành cơ sở của những tri thức về vấn đề. Trong khi đó, những phương pháp nghiên cứu khoa học hướng tới tìm kiếm các tri thức mới trên cơ sở tiến hành các nghiên cứu chuyên biệt.
Các quyết định được lựa chọn không phải ngẫu nhiên, mà xuất phát từ “tầm nhìn” (hình dung) về hình mẫu (mô hình) vấn đề, tức là hình dung về hệ quả của quyết định đã được lựa chọn. Nếu vấn đề nảy sinh được giải quyết thành công sẽ tạo niềm tin đối với mô hình và tạo ra tri thức về cách giải quyết vấn đề nếu xảy ra tương tự trong tương lai. 
Mô hình quản lý giải quyết những vấn đề mới nảy sinh dựa trên sử dụng hai dạng tri thức, là:
- Tri thức phản ánh kinh nghiệm của mình và thế giới (tích cực và tiêu cực) trong giải quyết vấn đề quản lý;
- Tri thức có được từ mô hình hóa vấn đề và tiến hành các thử nghiệm khoa học đối với mô hình đó.
Tri thức, các tư tưởng và mô hình văn hóa quản lý là sản phẩm của hoạt động sáng tạo của con người làm cơ sở tạo lập văn hóa xã hội, trong đó phản ánh kinh nghiệm thực tiễn và nghiên cứu khoa học trong giải quyết vấn đề. Khác với các thiết chế, sáng kiến và phương thức giải quyết vấn đề hướng tới giải quyết các vấn đề cụ thể, tri thức mang tính phổ quát và cần thiết để giải quyết tất cả mọi vấn đề, tạo ra tri thức như là sản phẩm tinh thần được tích lũy trong xã hội đảm bảo tính tiến bộ của phát triển xã hội.
Quản lý bằng tri thức là một hình thức quản lý dựa trên tri thức về vấn đề, tức là những thông tin cần thiết để xác định và giải quyết các vấn đề quản lý tổ chức. Tri thức sẽ giúp và đảm bảo giảm thiểu tính vô định và rủi ro trong việc ra quyết định, nhất là đối với những quyết định có thể là sai lầm. Thị trường thông tin ngày càng phát triển như vũ bão, thông tin trở thành hàng hóa, được coi là nguồn của tri thức (knowledge resources). Hình thành đội ngũ chuyên gia về tri thức (knowledge officers) có trách nhiệm đảm bảo thông tin cho quá trình ra các quyết định quản lý trong đội ngũ cán bộ, công chức là hết sức cần thiết. Từ đó nảy sinh vấn đề hệ thống hóa tri thức nhằm tìm kiếm nhanh chóng các thông tin cần thiết. Đặc biệt là việc cần thiết chuyển từ hệ thống thông tin theo ngành, lĩnh vực (tài chính, kinh tế, văn hóa… ) sang hệ thống theo “tư duy vấn đề” nhằm giải quyết ngay và càng nhanh chóng hiệu quả hơn các vấn đề quản lý.
Công cuộc cải cách và đổi mới nền hành chính nhà nước trong giai đoạn trước mắt đang đứng trước những thách thức của sự chuyển đổi về chất sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Sự vận hành nền kinh tế theo các quy luật của thị trường đòi hỏi phải đổi mới mạnh mẽ vai trò, chức năng của Nhà nước nói chung và của nền hành chính nhà nước nói riêng, đòi hỏi phải chuyển mạnh sang nền hành chính “phục vụ". Phải thấy rằng hội nhập quốc tế và khu vực vừa là thời cơ, thuận lợi, vừa đặt ra thách thức mới đối với nền hành chính nhà nước; quá trình đẩy mạnh dân chủ hóa đời sống xã hội, các yêu cầu về phát huy dân chủ cơ sở, thu hút mạnh mẽ sự tham gia của người dân vào quản lý nhà nước, về đảm bảo tính công khai, minh bạch trong thể chế, chính sách, thủ tục hành chính cũng như trong thực thi công vụ đòi hỏi, buộc các cơ quan nhà nước và các cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính phải thích ứng cả về nội dung lẫn phương thức hoạt động; đồng thời các tiến bộ khoa học, công nghệ, yêu cầu hiện đại hóa nền hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử có tác động mạnh mẽ, trực tiếp tới tổ chức, hoạt động của các cơ quan trong hệ thống hành chính, tới việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cả về trình độ, năng lực, ý thức trách nhiệm và tác phong, phương pháp công tác. Hơn thế nữa, ảnh hưởng của cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp trước đây, sức ỳ của nền hành chính cũ đang in đậm trong nếp nghĩ, cách làm của đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy, đang là trở ngại, thách thức lớn đối với công cuộc cải cách và hiện đại hoá hành chính nhà nước hiện nay.
Tóm lại, để phấn đấu có được một nền hành chính thật sự dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại, phù hợp với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong điều kiện mở cửa hội nhập quốc tế hướng tới xây dựng nền kinh tế tri thức, cần hiểu rõ rằng: Tri thức và công nghệ thông tin làm chuyển đổi rất nhanh cơ cấu kinh tế xã hội. Các công nghệ cao, truớc hết là công nghệ thông tin là nguồn gốc mọi sự biến đổi lớn lao trong sản xuất xã hội, góp phần đẩy mạnh cả sự đổi mới tư duy và tất yếu dẫn tới nền kinh tế tri thức toàn cầu hoá. Tri thức và thông tin luôn luôn đi tới những nơi có nhu cầu cao nhất và bị ít rào cản nhất. Vì vậy, cần đổi mới toàn diện các lĩnh vực: đổi mới mô hình tăng trưởng theo định hướng kinh tế tri thức, đổi mới doanh nghiệp theo hướng doanh nghiệp tri thức, đổi mới toàn diện và triệt để giáo dục và đào tạo, xây dựng đội ngũ trí thức đủ năng lực sáng tạo, xây dựng đội ngũ công nhân tri thức, xây dựng xã hội học tập, đổi mới hệ thống khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực khoa học và công nghệ quốc gia, phát triển mạnh hạ tầng thông tin, xây dựng xã hội thông tin, hình thành hệ thống đổi mới sáng tạo có thể nhanh chóng biến tri thức thành giá trị. Vốn tri thức xã hội gắn liền với vốn con người - những nguồn lực cơ bản của phát triển. Tài nguyên là có hạn, tri thức, sự sáng tạo là vô hạn. Sức mạnh cạnh tranh trên mọi lĩnh vực ngày nay là cạnh tranh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, là chuyển dịch hiệu quả từ trang bị kiến thức sang bồi dưỡng năng lực trong một xã hội học tập suốt đời, kể cả trong nền công vụ. Một nền công vụ hiện đại phải là “trí tuệ”, với đội ngũ cán bộ, công chức có tính chuyên nghiệp cao. Tương lai phát triển của đất nước phụ thuộc phần lớn vào đội ngũ cán bộ, công chức trí tuệ, chuyên nghiệp, tận tụy phục vụ xã hội. Sự kích hoạt đối với chuyển động đó không là gì khác, ngoài ý chí chính trị của Đảng và sự nhất quán hành chính của Nhà nước./.
-------------------------------------------
Chú thích:
1. Nghị quyết Đại hội dại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII.
2. Nguyễn Xuân Phúc. Quyết tâm cải cách công vụ, công chức để xây dựng một nền hành chính phục vụ nhân dân. Cổng TTĐT Chính phủ.http://baodientu.chinhphu.vn
PGS.TS. Lưu Kiếm Thanh, PGS.TS. Ngô Thành CanHọc viện Hành chính quốc gia
Nguồn chép: Tạp Chí Cộng Sản

Trí tuệ quản lý

 Lê Qúy Đôn cho rằng: “Phi nông bất ổn - Phi công bất phú - Phi thương bất hoạt - Phi trí bất hưng”

Có thể hiểu kinh tế tri thức là một nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Và trong nền kinh tế đó, tri thức đóng vai trò quyết định hàng đầu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia, bởi lẽ tri thức là bộ phận nguồn lực quan trọng nhất, quyết định nhất của lực lượng sản xuất hiện đại, mà trình độ phát triển của lực lượng sản xuất lại đóng vai trò quyết định sự phát triển xã hội.
Với nhận định, thời gian tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức; hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn; toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy mạnh, Đại hội Đảng lần thứ XII xác định cần nỗ lực tập trung: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hoà bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”(1).
Mặc dầu kinh tế Việt Nam trong hơn 30 năm qua đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận với chính sách đổi mới, chuyển sang kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Việt Nam đạt sự tăng trưởng nhanh trong những năm đầu thập kỷ 90 thế kỷ XX, tiếp đó, vượt qua tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính khu vực, tiếp tục tăng trưởng khá trong thập niên đầu thế kỷ XXI… Tuy nhiên, để tiếp tục bước đi cùng một nhịp với thời đại - thời đại tri thức và thông tin, cần đổi mới tư duy dựa trên phát triển trí tuệ con người, coi tri thức là nguồn gốc của mọi của cải; coi trọng tài sản trí tuệ hơn tài sản hữu hình; đội ngũ trí thức là chủ thể của nền kinh tế tri thức, và cũng chính họ là trụ cột của nền công vụ. Một nền kinh tế không dựa vào nguồn lực trí tuệ, không được quản trị tốt sẽ không có sức cạnh tranh trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay.
Trong nền kinh tế tri thức: trọng tâm của quản lý kinh tế cần chuyển từ quản lý nguồn lực vật chất (hữu hình) sang quản lý nguồn lực trí tuệ (vô hình), tức là chuyển sang quản lý tri thức và quản lý dựa trên tri thức, khơi dậy các năng lực sáng tạo, tạo ra tri thức mới và sử dụng có hiệu quả tri thức, biến tri thức thành giá trị. Từ đó, vai trò của chính phủ sẽ chuyển từ chức năng kiểm soát, chỉ huy sang chức năng kiến tạo phát triển, tức chức năng định hướng phát triển và chức năng bà đỡ cho nền kinh tế, tạo cơ hội bình đẳng cho mọi người sản xuất kinh doanh, chăm lo nuôi dưỡng các khả năng sáng tạo, phát triển các nhân tố mới. Như vậy, cần từ bỏ cung cách quản lý quan liêu, kiến tạo một nền công vụ hướng tới thúc đẩy quá trình đổi mới dựa trên sự “thiết lập hệ thống đổi mới sáng tạo trong toàn nền kinh tế, tạo sự liên kết hữu cơ khoa học - đào tạo - sản xuất kinh doanh, cơ chế tài chính, tín dụng thỏa đáng”; phát triển thị trường công nghệ, quỹ đầu tư mạo hiểm, các khu công nghệ cao, vườn ươm công nghệ, vườn ươm doanh nghiệp, phát triển hệ thống cụm tri thức (knowledge cluster) từ trung ương đến các vùng, các địa phương để hỗ trợ thúc đẩy việc tạo và nhanh chóng sử dụng tri thức sát với tình hình cụ thể; thực thi chính sách thỏa đáng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với từng giai đoạn phát triển, theo nguyên tắc bảo đảm hài hòa lợi ích của người sáng tạo, người sử dụng và lợi ích chung của xã hội, lợi ích của đất nước. Đổi mới sáng tạo (innovation) trở thành động lực chủ yếu của sự tăng trưởng và phát triển khi nó tạo ra những của cải và các giá trị mới. Điều đó đòi hỏi phải đầu tư cho vốn tri thức, phát triển vốn tri thức, không ngừng nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới trong mọi lĩnh vực, không loại trừ lĩnh vực quản lý nhà nước, để có được cách thức quản trị, điều hành mới, tạo những sản phẩm mới, khác biệt, thậm chí duy nhất. 
Để “xây dựng một nền công vụ chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch, hiệu quả vì nhân dân, phục vụ nhân dân, góp phần quan trọng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, phòng chống tham nhũng và bảo đảm sự thành công của công cuộc cải cách mà Đảng và Nhà nước ta đang quyết tâm thực hiện”(2) cần “phát huy trí tuệ tập thể”. Song, cũng cần ý thức rõ ràng rằng trí tuệ tập thể bao gồm các yếu tố cấu thành. Trong nền công vụ đó là “trí tuệ quản lý” - một hình thức biểu hiện đặc biệt của “trí tuệ tập thể”, một loại hình “trí tuệ chuyên môn” quản lý. Trí tuệ quản lý là sự tổng hợp đặc biệt một số phẩm chất trí tuệ xã hội và “phổ quát”, tổ hợp lô-gic và bản năng, với phong cách tư duy nổi trội là tính tổng hợp, phân tích và hữu dụng. Trí tuệ quản lý có ý nghĩa tác động to lớn đến hiệu quả của nền công vụ - hoạt động do công chức nhân danh nhà nước thực hiện theo quy định của pháp luật và được pháp luật bảo vệ nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân. Sự tác động đó tương ứng với tính thứ bậc của nền công vụ. Chức vụ càng cao thì cái giá phải trả cho các sai lầm quản lý cũng càng cao. Có sai lầm ảnh hưởng đến một cá nhân, một tập thể, có sai lầm mà có thể cả một dân tộc phải hứng chịu.
Phân tích đặc thù hoạt động chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức cho thấy trong hoạt động công vụ nảy sinh và hình thành các yếu tố cấu thành của “trí tuệ chuyên môn” như: năng lực và kỹ năng sử dụng hiệu quả các công cụ hoạt động; năng lực tư duy chiến lược sâu và linh hoạt cao, sáng tạo và độc đáo, phân tích lô-gic “phản biện sâu”; hoạch định và tổ chức thực hiện công việc khoa học, có tính tác nghiệp cao, cẩn trọng và tập trung; khả năng phán đoán, phòng ngừa rủi ro, đánh giá khách quan các hậu quả, quyết đoán nhanh trong điều kiện hạn chế về thời gian, trên cơ sở kết hợp với các yếu tố của tư duy trí tuệ xã hội như năng lực tương tác và phối hợp hiệu quả với các đồng nghiệp trong thực thi công vụ.
Người cán bộ, công chức hiện đại với “trí tuệ quản lý” cần là người có:
- Ý chí, nỗ lực quyết tâm; có tích luỹ kinh nghiệm, biết không ngừng trau dồi kiến thức và học hỏi để hoàn thiện mình. Năng lực lãnh đạo là cả một quá trình mà tại đó một cá nhân có ảnh hưởng lên những người khác để họ hoàn thành một mục tiêu và một hướng dẫn nào đó theo phương cách nối kết với nhau sao cho có hiệu quả nhất. Các nhà lãnh đạo thực hiện quá trình này bằng chính các kỹ năng chỉ huy của mình, chẳng hạn như lòng tin, sự tôn trọng, cách ứng nhân xử thế, tính cách, với tư duy sắc sảo của người lãnh đạo (có lô-gic + tầm nhìn), cảm nhận được thực tiễn và luôn đi thẳng vào vấn đề. 
- Có đủ năng lực, tinh thần trách nhiệm, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đặc biệt đối với cán bộ, công chức lãnh đạo phải là người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề trong những hoàn cảnh khó khăn; khi thất bại không hoang mang, khi thắng lợi không kiêu ngạo; luôn luôn giữ đúng kỷ luật.
- Thẩm thấu sâu sắc các giá trị cơ bản cơ bản của nền công vụ: bảo đảm hiệu lực và hiệu quả quản lý; tính trách nhiệm trước Nhà nước và trước nhân dân; tuân thủ pháp luật, thực hiện công bằng xã hội; tôn trọng cống hiến, công trạng và thành tích của công chức; bảo đảm quyền và nghĩa vụ của cán bộ, công chức.
- Có khả năng tiếp cận mới với các vấn đề về chính trị, kinh tế, hành chính, tư pháp, pháp lý, xã hội học, văn hóa dân tộc và sự dung hòa các nền văn hóa khác nhau, vấn đề quốc gia, dân tộc, quản trị công… trong thời đại tri thức, khi nhiều quan niệm, khái niệm thay đổi và xuất hiện mới. 
- Năng lực xác lập các mối quan hệ nhân quả và vấn đề then chốt (“mắt xích” quan trọng; khâu đột phá), mà tập trung vào giải quyết sẽ quyết định được các vấn đề khác.
- Khả năng mô hình hoá các quá trình, quy trình, dự báo (đoán định) được sự phát triển và các hệ quả của hoàn cảnh gắn liền với hoạt động của cơ quan, tổ chức để có cơ sở đưa ra các quyết định quản lý tương ứng.
- Hiểu biết sâu sắc các quan tâm, lợi ích, động cơ và tâm lý con người, năng lực lựa chọn cán bộ, công chức cho các vị trí chủ chốt, tập hợp, đoàn kết và tập trung nỗ lực tập thể cho việc giải quyết các vấn đề đặt ra.
- Năng lực thao tác một khối lượng rất lớn các dữ liệu luôn biến động trong xây dựng các kế hoạch dài hạn và ngắn hạn.
- Tư duy đánh giá phê phán, kỹ năng học tập qua “rút kinh nghiệm”, hiểu biết bản chất các nguyên tắc quản lý, tính cần thiết của các biện pháp cứng rắn và không thông thường trong quan hệ với cấp dưới để đảm bảo tính thứ bậc của nền công vụ.
- Từ điển Pratique du Francais 1987 định nghĩa rất gọn rằng: "Công vụ là công việc của công chức". Như vậy, người cán bộ, công chức cần đảm bảo những yêu cầu về tính chuyên nghiệp của đội ngũ công chức như: tinh thông nghiệp vụ; có các kỹ năng thuần thục để thực thi các nghiệp vụ đó; hiểu rõ và biết vận dụng những nguyên tắc quản lý điều hành như một khoa học và nghệ thuật; hiểu rõ và thực thi đúng quy chế công vụ.
- Đủ năng lực cảm nhận và thực hành các giá trị nhân văn của nền công vụ, khi định hình được tri thức văn hoá nền tảng, “cốt lõi”; xác định rõ phạm vi các khái niệm tinh thần - đạo đức cơ bản và đưa chúng trở thành các hành vi công vụ; xác định được các yếu tố thúc đẩy sự chuyển biến các giá trị nhân văn của giáo dục - giáo dưỡng vào hoàn thiện nhân cách cán bộ, công chức, trên tinh thần đảm bảo mỗi cá nhân sẽ ý thức được các giá trị cơ bản (nền tảng) của cá nhân trong quá trình phát triển nhân cách.
Piter Drucker, nhà quản trị học người Mỹ đã có nhận định rằng: trong thế kỷ XXI, cơ sở nền tảng (nguyên tắc) của hoạt động doanh nghiệp được chuyển từ “dựa trên tổ chức tối ưu hóa” sang “dựa trên tri thức và thông tin”, tức là phần lớn công việc được thực hiện bởi các chuyên gia “tư duy chiến lược”. Trong quản lý nhà nước, nguyên tắc đó cũng rất phù hợp. Dựa vào đó, cần ý thức được rằng: cần có cơ chế quản lý từ “trung tâm đầu não”, nơi nghiên cứu và dự báo các vấn đề mới nảy sinh, còn các đơn vị thừa hành vẫn tiếp tục thực hiện giải quyết các vấn đề đã đặt ra. Những vấn đề dự báo không chỉ có tính lâu dài, mà có thể có tính cấp thiết cần được giải quyết ngay.
Những tri thức và thông tin cần thiết để giải quyết những vấn đề xã hội có thể có được từ 2 nguồn: phương pháp “thử nghiệm” và nghiên cứu khoa học. Phương pháp thử nghiệm dựa trên lựa chọn ngẫu nhiên một trong các phương án giải quyết vấn đề và phân tích các kết quả đạt được. Sau một loạt các thử nghiệm sẽ hình thành kinh nghiệm nhất định (tích cực và tiêu cực). Kinh nghiệm đó sẽ trở thành cơ sở của những tri thức về vấn đề. Trong khi đó, những phương pháp nghiên cứu khoa học hướng tới tìm kiếm các tri thức mới trên cơ sở tiến hành các nghiên cứu chuyên biệt.
Các quyết định được lựa chọn không phải ngẫu nhiên, mà xuất phát từ “tầm nhìn” (hình dung) về hình mẫu (mô hình) vấn đề, tức là hình dung về hệ quả của quyết định đã được lựa chọn. Nếu vấn đề nảy sinh được giải quyết thành công sẽ tạo niềm tin đối với mô hình và tạo ra tri thức về cách giải quyết vấn đề nếu xảy ra tương tự trong tương lai. 
Mô hình quản lý giải quyết những vấn đề mới nảy sinh dựa trên sử dụng hai dạng tri thức, là:
- Tri thức phản ánh kinh nghiệm của mình và thế giới (tích cực và tiêu cực) trong giải quyết vấn đề quản lý;
- Tri thức có được từ mô hình hóa vấn đề và tiến hành các thử nghiệm khoa học đối với mô hình đó.
Tri thức, các tư tưởng và mô hình văn hóa quản lý là sản phẩm của hoạt động sáng tạo của con người làm cơ sở tạo lập văn hóa xã hội, trong đó phản ánh kinh nghiệm thực tiễn và nghiên cứu khoa học trong giải quyết vấn đề. Khác với các thiết chế, sáng kiến và phương thức giải quyết vấn đề hướng tới giải quyết các vấn đề cụ thể, tri thức mang tính phổ quát và cần thiết để giải quyết tất cả mọi vấn đề, tạo ra tri thức như là sản phẩm tinh thần được tích lũy trong xã hội đảm bảo tính tiến bộ của phát triển xã hội.
Quản lý bằng tri thức là một hình thức quản lý dựa trên tri thức về vấn đề, tức là những thông tin cần thiết để xác định và giải quyết các vấn đề quản lý tổ chức. Tri thức sẽ giúp và đảm bảo giảm thiểu tính vô định và rủi ro trong việc ra quyết định, nhất là đối với những quyết định có thể là sai lầm. Thị trường thông tin ngày càng phát triển như vũ bão, thông tin trở thành hàng hóa, được coi là nguồn của tri thức (knowledge resources). Hình thành đội ngũ chuyên gia về tri thức (knowledge officers) có trách nhiệm đảm bảo thông tin cho quá trình ra các quyết định quản lý trong đội ngũ cán bộ, công chức là hết sức cần thiết. Từ đó nảy sinh vấn đề hệ thống hóa tri thức nhằm tìm kiếm nhanh chóng các thông tin cần thiết. Đặc biệt là việc cần thiết chuyển từ hệ thống thông tin theo ngành, lĩnh vực (tài chính, kinh tế, văn hóa… ) sang hệ thống theo “tư duy vấn đề” nhằm giải quyết ngay và càng nhanh chóng hiệu quả hơn các vấn đề quản lý.
Công cuộc cải cách và đổi mới nền hành chính nhà nước trong giai đoạn trước mắt đang đứng trước những thách thức của sự chuyển đổi về chất sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Sự vận hành nền kinh tế theo các quy luật của thị trường đòi hỏi phải đổi mới mạnh mẽ vai trò, chức năng của Nhà nước nói chung và của nền hành chính nhà nước nói riêng, đòi hỏi phải chuyển mạnh sang nền hành chính “phục vụ". Phải thấy rằng hội nhập quốc tế và khu vực vừa là thời cơ, thuận lợi, vừa đặt ra thách thức mới đối với nền hành chính nhà nước; quá trình đẩy mạnh dân chủ hóa đời sống xã hội, các yêu cầu về phát huy dân chủ cơ sở, thu hút mạnh mẽ sự tham gia của người dân vào quản lý nhà nước, về đảm bảo tính công khai, minh bạch trong thể chế, chính sách, thủ tục hành chính cũng như trong thực thi công vụ đòi hỏi, buộc các cơ quan nhà nước và các cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính phải thích ứng cả về nội dung lẫn phương thức hoạt động; đồng thời các tiến bộ khoa học, công nghệ, yêu cầu hiện đại hóa nền hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử có tác động mạnh mẽ, trực tiếp tới tổ chức, hoạt động của các cơ quan trong hệ thống hành chính, tới việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cả về trình độ, năng lực, ý thức trách nhiệm và tác phong, phương pháp công tác. Hơn thế nữa, ảnh hưởng của cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp trước đây, sức ỳ của nền hành chính cũ đang in đậm trong nếp nghĩ, cách làm của đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy, đang là trở ngại, thách thức lớn đối với công cuộc cải cách và hiện đại hoá hành chính nhà nước hiện nay.
Tóm lại, để phấn đấu có được một nền hành chính thật sự dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại, phù hợp với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong điều kiện mở cửa hội nhập quốc tế hướng tới xây dựng nền kinh tế tri thức, cần hiểu rõ rằng: Tri thức và công nghệ thông tin làm chuyển đổi rất nhanh cơ cấu kinh tế xã hội. Các công nghệ cao, truớc hết là công nghệ thông tin là nguồn gốc mọi sự biến đổi lớn lao trong sản xuất xã hội, góp phần đẩy mạnh cả sự đổi mới tư duy và tất yếu dẫn tới nền kinh tế tri thức toàn cầu hoá. Tri thức và thông tin luôn luôn đi tới những nơi có nhu cầu cao nhất và bị ít rào cản nhất. Vì vậy, cần đổi mới toàn diện các lĩnh vực: đổi mới mô hình tăng trưởng theo định hướng kinh tế tri thức, đổi mới doanh nghiệp theo hướng doanh nghiệp tri thức, đổi mới toàn diện và triệt để giáo dục và đào tạo, xây dựng đội ngũ trí thức đủ năng lực sáng tạo, xây dựng đội ngũ công nhân tri thức, xây dựng xã hội học tập, đổi mới hệ thống khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực khoa học và công nghệ quốc gia, phát triển mạnh hạ tầng thông tin, xây dựng xã hội thông tin, hình thành hệ thống đổi mới sáng tạo có thể nhanh chóng biến tri thức thành giá trị. Vốn tri thức xã hội gắn liền với vốn con người - những nguồn lực cơ bản của phát triển. Tài nguyên là có hạn, tri thức, sự sáng tạo là vô hạn. Sức mạnh cạnh tranh trên mọi lĩnh vực ngày nay là cạnh tranh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, là chuyển dịch hiệu quả từ trang bị kiến thức sang bồi dưỡng năng lực trong một xã hội học tập suốt đời, kể cả trong nền công vụ. Một nền công vụ hiện đại phải là “trí tuệ”, với đội ngũ cán bộ, công chức có tính chuyên nghiệp cao. Tương lai phát triển của đất nước phụ thuộc phần lớn vào đội ngũ cán bộ, công chức trí tuệ, chuyên nghiệp, tận tụy phục vụ xã hội. Sự kích hoạt đối với chuyển động đó không là gì khác, ngoài ý chí chính trị của Đảng và sự nhất quán hành chính của Nhà nước./.
-------------------------------------------
Chú thích:
1. Nghị quyết Đại hội dại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII.
2. Nguyễn Xuân Phúc. Quyết tâm cải cách công vụ, công chức để xây dựng một nền hành chính phục vụ nhân dân. Cổng TTĐT Chính phủ.http://baodientu.chinhphu.vn
PGS.TS. Lưu Kiếm Thanh, PGS.TS. Ngô Thành CanHọc viện Hành chính quốc gia
Nguồn chép: Tạp Chí Cộng Sản

Một số khía cạnh bản chất của mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam

Cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định, kinh tế và chính trị vốn là hai lĩnh vực rộng lớn, cơ bản và quan trọng nhất của đời sống xã hội. Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị lại càng rộng lớn, đa dạng, phức tạp hơn. Để nhận thức rõ bản chất, nội dung của mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam, ngoài việc trực tiếp phân tích mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng (kinh tế) và kiến trúc thượng tầng (chính trị) đòi hỏi phải tìm hiểu những hình thức biểu hiện khác nhau của mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, tức là cần “lượng hóa” mối quan hệ này bằng các mối quan hệ “thứ cấp”, mối quan hệ cụ thể. 
Việc “lượng hóa” mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam thành các mối quan hệ “thứ cấp” cần tuân thủ theo những cơ chế, các nguyên tắc cơ bản: 1- Đó là các quan hệ phản ánh tập trung nhất, khái quát nhất, bản chất nhất mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. 2- Đó là những mối quan hệ phản ánh đúng mâu thuẫn, bản chất của quá trình đổi mới và phát triển của Việt Nam, mà trước hết là phát triển kinh tế. 3- Đó là những quan hệ phản ánh đặc trưng của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, vừa phù hợp với quy luật, xu thế của thời đại, vừa phù hợp với trình độ phát triển và bản sắc dân tộc(1). 
Do tính chất rộng lớn, đa dạng, phức tạp của mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị nên các mối quan hệ “thứ cấp” của nó cũng biểu hiện rất phong phú và sinh động. Tuy nhiên, có ba mối quan hệ cơ bản, cốt lõi nhất trong bản chất của mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam. 
Thứ nhất, mối quan hệ giữa xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với xây dựng và hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa. 
Đây là mối quan hệ chủ yếu, phản ánh tập trung nhất mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; bảo đảm giải quyết đúng đắn, hài hòa quan hệ giữa quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế. Đảng ta xác định, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là hệ thống “các thiết chế, công cụ và nguyên tắc vận hành kinh tế thị trường được tự giác tạo lập và sử dụng để giải phóng triệt để sức sản xuất, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”(2).
Xét về mặt nguyên tắc, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tất yếu phải là thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa. Và, theo quan điểm của Đảng, thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa là “hệ thống các quy tắc, quy định pháp luật, các luật lệ với tư cách là những chuẩn mực điều chỉnh hành vi của các chủ thể chính trị, các tổ chức chính trị, các cơ quan quản lý nhà nước và cơ chế vận hành; điều chỉnh các hoạt động trong lĩnh vực chính trị hướng tới thiết lập và phát triển nền chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân”(3).
Trên thực tế, để phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta xác định, thể chế chính trị phải được tổ chức và hoạt động phù hợp với thị trường. Đặc biệt, để tuân thủ đúng cơ chế thị trường luôn đặt ra yêu cầu cấp thiết phải sắp xếp lại chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể thuộc thể chế chính trị, nhất là thể chế nhà nước. Bên cạnh đó, sự phát triển nhanh chóng, năng động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi thể chế chính trị phải thường xuyên đổi mới, hoàn thiện theo hướng dân chủ xã hội chủ nghĩa nhằm bảo đảm cho thể chế chính trị không những luôn phù hợp với các bước phát triển của kinh tế, mà còn phải luôn ở thế chủ động trong các quan hệ kinh tế, thật sự có khả năng lãnh đạo kinh tế phát triển theo đúng định hướng. Vì thế, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, năng lực điều hành, quản lý của Nhà nước trong kinh tế là điều kiện tiên quyết để thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa đóng vai trò là nhân tố quan trọng, tác động tích cực đối với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Ngược lại, với tư cách là nhân tố giữ vai trò quyết định, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta ngày càng được hoàn thiện, phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây chính là điều kiện thuận lợi để từng bước hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa, đồng thời cũng là cơ sở cho việc hiện thực hóa những định hướng chính trị cho xã hội. Trong Văn kiện Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị”(4).
Đảng ta xác định rõ: xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ tạo ra môi trường và động lực phát triển kinh tế, củng cố cơ sở kinh tế cho đổi mới chính trị, cho việc xây dựng và hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa. Chính thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đóng vai trò động lực to lớn cho sự phát triển một tư duy chính trị năng động, cho việc hoàn thiện một thể chế nhà nước gần dân, sát thực với cuộc sống, cho việc tăng cường và củng cố dân chủ trong hoạt động của các đoàn thể chính trị - xã hội, của nhân dân. Tính năng động và bản chất dân chủ của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi và tạo tiền đề kinh tế - xã hội cho tính năng động và dân chủ trong các thể chế chính trị.
Đổi mới chính trị cũng như quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa sẽ tạo ra cơ sở chính trị - pháp lý cho sự phát triển kinh tế, cũng như cho việc xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc Đảng, Nhà nước lựa chọn mô hình kinh tế như thế nào có vai trò quyết định đến mối quan hệ giữa các tổ chức kinh tế tồn tại trong xã hội, đến cách thức tổ chức, sự vận hành, cơ chế sản xuất, kinh doanh,... cũng như đến mối quan hệ với Đảng và Nhà nước. Vai trò của thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa đối với thể chế kinh tế thị trường được thể hiện trước hết và chủ yếu ở việc giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trong quá trình đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị. Sự lãnh đạo đúng đắn, dựa trên tầm cao trí tuệ khoa học của Đảng là nhân tố quyết định để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của đổi mới kinh tế. 
Thứ hai, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong những vấn đề căn bản của triết lý phát triển ở Việt Nam hiện nay. Đảng ta đã sớm khẳng định, nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng nhất thiết phải có sự quản lý của Nhà nước; phải “bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”(5). Điều đó có nghĩa là, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa luôn là mối quan hệ biện chứng. Bởi lẽ, hai yếu tố quyết định cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường là nhà nước và thị trường. Cho nên, bàn về tính hiệu quả của nền kinh tế thị trường, mấu chốt là phải xác định rõ thực trạng của mối quan hệ này. 
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, có đủ bản lĩnh và khả năng tự đổi mới để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại. Và “Nhà nước quản lý, điều tiết nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, các công cụ kinh tế và lực lượng vật chất cần thiết và phù hợp với nguyên tắc của kinh tế thị trường”(6). Đặc điểm đó thể hiện sự khác biệt về chất của mô hình kinh tế thị trường mà nước ta hướng tới so với các mô hình kinh tế thị trường khác. 
Kinh tế thị trường ra đời và phát triển đã giải phóng và phát huy mạnh mẽ sức sản xuất xã hội cho phát triển kinh tế. Song, bản thân kinh tế thị trường không thể khắc phục được những khuyết tật cố hữu của nó, như khủng hoảng chu kỳ, tàn phá môi trường, phân tầng và phân hóa xã hội, băng hoại nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp,... Bởi thế, đồng thời với việc phát triển nền kinh tế thị trường, Đảng ta luôn coi trọng từng bước xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, để Nhà nước thực hiện tốt chức năng điều tiết, quản lý nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thông qua đó nhằm phát huy những mặt tích cực và hạn chế những khuyết tật của kinh tế thị trường, xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, tiến bộ, phấn đấu đạt được các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. 
Bên cạnh đó, kinh tế thị trường vốn là một kiểu quan hệ giữa người với người trong sản xuất, trao đổi và tiêu dùng, nên mang đậm dấu ấn của quan hệ xã hội, của thể chế chính trị được xây dựng trên nền tảng kinh tế đó. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có tác động trực tiếp nhất tới việc định hướng sự vận động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Pháp luật, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải phản ánh chính xác yêu cầu phát triển khách quan của thị trường, lấy quy luật thị trường làm cơ sở. 
Trong 30 năm đổi mới vừa qua, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa từng bước được xây dựng và hoàn thiện, nhất là việc coi trọng đổi mới vai trò quản lý nhà nước về kinh tế. Nhà nước giảm bớt các chỉ tiêu pháp lệnh, thu hẹp và từng bước xóa bỏ việc quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước bằng kế hoạch tập trung, quan liêu, bao cấp, đồng thời thay vào đó là Nhà nước quản lý, điều tiết nền kinh tế thông qua pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, các công cụ kinh tế và lực lượng vật chất cần thiết. Nhà nước đóng vai trò là một chủ thể kinh tế trên thị trường thông qua việc đầu tư vốn và quản lý tài sản công; tách quyền sở hữu và quyền quản lý, sử dụng; có sự phân cấp ngày càng nhiều hơn để phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương và cơ sở; xóa bỏ các hình thức bao cấp, hạn chế, kiểm soát và xóa bỏ độc quyền kinh doanh,... Nhà nước cũng đã tích cực ban hành các chủ trương, chính sách mở rộng các quan hệ thương mại, xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ với các nước, các đối tác; tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài; chủ động tham gia các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới.
Thứ ba, mối quan hệ giữa ổn định chính trị và đổi mới, phát triển kinh tế.
Trong mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam, Đảng ta xác định, vấn đề ưu tiên giải quyết trước là mối quan hệ giữa ổn định và phát triển. Ổn định và phát triển vừa là tiền đề, điều kiện của nhau, vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả của nhau. Ổn định chính trị - xã hội chính là một trạng thái bền vững của hệ thống xã hội, bảo đảm sự hoạt động và phát triển tối ưu của nó theo xu hướng tiến bộ, phù hợp với quy luật khách quan, ở đó quyền lực chính trị được phát huy trên cơ sở đồng thuận của đại đa số các thành viên xã hội. Ổn định chính trị - xã hội tích cực là tiền đề cho sự phát triển kinh tế, không có ổn định chính trị - xã hội chắc chắn không thể phát triển kinh tế. Đến lượt mình, nếu không phát triển kinh tế sẽ không thể giữ vững được ổn định chính trị - xã hội. 
Đổi mới chính trị, ổn định chính trị với đổi mới kinh tế và phát triển kinh tế luôn có quan hệ biện chứng, tác động qua lại, vừa là tiền đề, vừa là điều kiện trực tiếp, là động lực thúc đẩy lẫn nhau. Khi có ổn định chính trị - xã hội, chế độ chính trị được giữ vững thì các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội sẽ có sự phát triển cân đối, hài hòa. Vì vậy, ngay từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới, Đảng ta đã khẳng định: giữ vững ổn định chính trị là một nguyên tắc của đổi mới. 
Tuy nhiên, “tình huống lý luận và thực tiễn đặt ra là: một mặt, phải đổi mới và phát triển nhanh, mà đổi mới với đúng tầm mức của nó: đổi mới căn bản, toàn diện, triệt để, chứ không phải là cải tiến, điều chỉnh việc này, việc kia; mặt khác, phải giữ vững cho được ổn định chính trị - xã hội, không được để xảy ra rối loạn, vô chính phủ”(7). Theo lô-gíc hình thức, hai yêu cầu này dường như trái ngược nhau, mâu thuẫn với nhau, không thể tương hợp và sẽ rất dễ rơi vào tình trạng để giữ ổn định thì không muốn đổi mới, nhất là đổi mới chính trị; ngược lại, muốn đổi mới nhanh thì không thể không chấp nhận những đảo lộn lớn hay sự mất ổn định trong lĩnh vực này, lĩnh vực khác. Song, biện chứng của cuộc sống không phải như vậy.
Lời giải cho vấn đề này nằm ở việc nhận thức đúng mục tiêu, điều hành đúng phạm vi và có phương thức đúng trong thực hành đổi mới, thực hiện tốt sự kết hợp giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Trong đó, mục tiêu của đổi mới là giữ ổn định chính trị - xã hội vững chắc trên nền tảng kinh tế phát triển, đời sống của các tầng lớp nhân dân được nâng cao, xã hội dân chủ và đồng thuận. 
Ngay từ khi bắt đầu đổi mới, Đảng ta xác định, mấu chốt của việc giữ vững ổn định chính trị là đổi mới và phát triển kinh tế, để giải phóng và tăng cường sức sản xuất xã hội, tăng thu nhập và cải thiện đời sống của nhân dân. Nói cách khác, phải tập trung đổi mới kinh tế trước, vì khủng hoảng kinh tế - xã hội lúc bấy giờ đã đến mức cực kỳ nghiêm trọng. Có đổi mới mạnh mẽ về kinh tế mới tạo được các điều kiện cơ bản để giữ vững ổn định chính trị và thông qua đó mới tiến hành đổi mới chính trị thuận lợi, thậm chí mới biết rõ trong chính trị cần đổi mới những gì, đổi mới ra sao, theo hướng nào,... Và, đổi mới như thế sẽ vẫn giữ vững mục tiêu và bản chất chế độ, không gây ra những đảo lộn hay bất ổn về chính trị. Về phạm vi của đổi mới, trên cơ sở giữ vững 6 nguyên tắc đổi mới được xác định trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa VI và 6 định hướng lớn được xác định trong Nghị quyết số 09-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa VII, hoàn toàn được phép đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và triệt để. Về phương thức tiến hành đổi mới, phải tiến hành cả “từ trên xuống” và “từ dưới lên”, có bước đi vững chắc, với những vấn đề mới và khó phải nghiên cứu kỹ, làm thí điểm để rút kinh nghiệm trước khi triển khai trên diện rộng; đặc biệt, phải dựa vào nhân dân, trên cơ sở dân chủ. Với phương thức ấy sẽ bảo đảm tính chủ động cao, khả năng kiểm soát chặt chẽ các tiến trình xã hội, ngăn chặn từ gốc các nhân tố có thể gây mất ổn định chính trị - xã hội, khủng hoảng kinh tế. Và, “trạng thái ổn định được tạo lập theo phương thức ấy là sự ổn định thực chất, có nền tảng vững chắc, ổn định trong xu thế phát triển, không giả tạo hay chỉ được xác lập bằng mệnh lệnh hành chính, không chỉ giữ được ổn định bằng tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân, mà còn củng cố vững chắc khối đại đoàn kết, đồng thuận xã hội, thực hiện đúng “ý Đảng hợp với lòng dân””(8). 
Trong thời kỳ đổi mới, mối quan hệ giữa ổn định chính trị với đổi mới, phát triển kinh tế đã, đang được Đảng ta nhận thức và chú trọng giải quyết hài hòa, hợp lý, hiệu quả. Trong đó, sự ổn định chính trị tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy đổi mới, phát triển kinh tế, và ngược lại, đổi mới, phát triển kinh tế lại góp phần tích cực nhất vào ổn định chính trị; qua đó góp phần đưa nước ta vượt qua được nhiều khó khăn, thử thách, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế./.
-------------------------------------------
(1) Xem: Dương Xuân Ngọc (Chủ biên), Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 89 - 90
(2) Văn kiện hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 139
(3) Dương Xuân Ngọc (Chủ biên): Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam, Sđd, tr. 93
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 104
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 78
(6) Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 - 2016), Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội 2015, tr. 65
(7), (8) Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (Đồng chủ biên): Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 349, 350
Nguyễn Đình BắcTS, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòngNguồn lấy: Tạp Chí Cộng Sản