Chủ Nhật, 21 tháng 5, 2017

LÝ LỊCH CỦA TÊN PHẢN ĐỘNG HOÀNG ĐỨC BÌNH

Ếch
Hoàng Đức Bình
Sinh ngày 10/2/1983,
Quê quán tại xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An
Bị bắt về tội “Chống người thi hành công vụ; lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”, quy định tại Điều 257, 258 – Bộ luật Hình sự để điều tra, xử lý theo pháp luật.

 Hoàng Đức Bình thường xuyên đăng tải, chia sẻ trên Facebook cá nhân những thông tin, tài liệu tuyên truyền nói xấu chế độ, cổ vũ phong trào đa nguyên, đa đảng. Lợi dụng sự cố môi trường biển miền Trung, với tư cách Phó chủ tịch “Phong trào Lao động Việt”, Hoàng Đức Bình đã xúc tiến, thành lập “Hiệp hội ngư dân miền Trung” với ý đồ tạo dựng tổ chức ngoại vi, tập hợp lực lượng, lôi kéo giáo dân, ngư dân miền Trung tham gia vào tổ chức; tìm chọn “hạt nhân” kích động biểu tình, phá rối an ninh trật tự.
Hoàng Đức Bình đã nhiều lần cùng một số linh mục cực đoan như Đặng Hữu Nam, Nguyễn Đình Thục lôi kéo giáo dân vào tòa án nhân dân TX Kỳ Anh để nộp đơn kiện Formosa, nhưng thực chất là gây rối, làm ảnh hưởng an ninh trật tự nơi công cộng, đối tượng Bình đã mua loa công suất lớn trang bị cho các cuộc gây rối nơi công cộng, quay phim, phát tán trên mạng, bóp méo sự thật để kích động người dân chống đối chính quyền....

Điển hình, ngày 2/4/2017, Hoàng Đức Bình và Bạch Hồng Quyền (sinh ngày 17/8/1989, quê thôn Cói, xã An Đỗ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, đối tượng hiện đang bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Tĩnh công bố quyết định truy nã toàn quốc về tội gây rối trật tự công cộng), đã vào kích động người dân giáo xứ Trung Nghĩa (Thạch Bằng, Lộc Hà, Hà Tĩnh) bao vây, tấn công tổ tuần tra của Công an huyện Lộc Hà và Công an xã Thạch Bằng, làm 1 đồng chí công an bị thương; bao vây, đập phá tài sản nhà trưởng công an xã Thạch Bằng, kéo lên trụ sở Công an huyện, UBND huyện Lộc Hà gây mất trật tự an ninh.

ĐÁNH DẬP ĐẦU RẮN CHỦ THÌ PHẢI BẮT BẰNG ĐƯỢC NGUYỄN ĐÌNH THỤC

Đánh Rắn phải đánh dập đầu.
Việc, bắt tên cầm đầu đội lốt linh mục(Lm) mang tên Nguyễn Đình Thục là một việc làm cần thiết và rất cấp bách ngay lúc này. Đó là cách, “Đánh rắn dập đầu”được hiểu rộng ra có nghĩa là, phải tiêu diệt kẻ cầm đầu, đầu têu trong các vụ biểu tình trá hình gây bạo loạn ở Nghệ An và tỉnh Hà Tĩnh, Tuy nhiên, chính quyền Nghệ An đã khồng làm như vậy, mà chỉ “Đánh Rắn giữa lưng” như thời gian vừa qua là không thể chấp nhận được. 
 Rõ ràng, Báo, Đài Truyền thanh, Truyền hình tỉnh Nghệ An suốt ngày phát sóng ra rả luận tội Lm Nguyễn Đình Thục, thậm chí cả Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam (VOV), Đài Truyền hình Trung ương VTV1 cũng phát nhiều lần trong chương trình thời sự 19h, tố cáo kẻ cầm đầu làm loạn ở xứ miền Trung, chỉ đích danh Lm Nguyễn Đình Thục, kẻ khoác áo Thầy tu nhưng “Bụng một bồ dao găm”. Chính y, một trong những kẻ cầm đầu ngông cuồng nhất, hiếu chiến nhất, nguy hiểm nhất trong đám chủ chăn áo choàng đen, mà chúng ta đã từng thấy trong thời gian vừa qua.
Tố cáo, luận tội như vậy. Nhưng chính quyền tỉnh Nghệ An lại không bắt Nguyễn Đình Thục để “Đánh rắn dập đầu”, triệt hạ ngay từ trong trứng nước những âm mưu phản loạn của Nguyễn Đình Thục, mà lại bắt những kẻ được cho là “Tép riu” như Bạch Hồng Quyền và Hoàng Đức Bình, động thái của chính quyền tỉnh Nghệ An dường như không giúp được vãn hồi An ninh, trật tự và an toàn xã hội của tỉnh nhà, Ngược lại, chỉ càng thêm rối loạn như chúng ta đã thấy vào ngày 15/5 vừa qua. Vì thế, đã gây ra những hiệu ứng tiêu cực đối với người dân công giáo, tác dụng ngược làm cho việc thực thi chấp pháp ngày càng thêm khó khăn. 
Hội chứng nhờn luật, coi thường kỷ cương phép nước ngày càng rõ. Vì thế, những cuộc biểu tình phản loạn chống chính quyền những ngày qua, không những không hề giảm, mà ngày càng gia tăng tần suất và cả cường độ, bởi sự hung hãn của đám giáo dân cực đoan, được sự cổ vũ, kích động của Nguyễn Đình Thục trong các vụ bạo loạn ngày càng trở nên nguy hiểm, khi chúng tấn công cơ quan công quyền và chống người thi hành công vụ, chặn xe quốc lộ 1A, hạ Cờ Tổ quốc treo Cờ Vatican, thậm chí cả Cờ ba sọc đỏ của chế độ Ngụy VNCH ….. Rõ ràng, kẻ thù của chúng ta đang lấn tới, chúng coi thường luật pháp, bằng hành vi đối đầu trực diện với chính quyền mà không hề sợ hãi.
Có người nói, có lẽ vì yếu tố nhạy cảm về “Vấn đề” tôn giáo, “Uy tín Quốc gia” trên trường quốc tế, nên chỉ “Đánh rắn giữa lưng” để “Hù dọa” mà Không dám “Đánh Rắn dập đầu”. Đáng tiếc thay, Chính vì cái gọi, “Yếu tố nhạy cảm” này, mà chúng ta không chuyên chính với kẻ thù, đang để “Nhân quyền cao hơn chủ quyền thiêng liêng của đất nước”. Tước đi quyền của một đất nước có chủ quyền. Vô hình chung, đã tự biến chính quyền thành “Nhu nhược” để kẻ thù lấn tới, được “Đằng chân chúng lấn lên đằng đầu” hết lần này đến lần khác.
Hãy, nhớ câu nói bất hủ này của Chủ tịch Cu Ba Phiđencátstro khi nói về chuyên chính với kẻ thù (đại ý): “Bạn lùi một bước, chúng tiến hai bước, bạn lùi hai bước chúng tiến ba bước. Đến khi bạn không còn đường lùi chúng tiến tới cắt cổ bạn. Thế nên, bạn phải cắt cổ chúng trước, trước khi chúng cắt cổ bạn”.
Vì vậy, để đảm bảo An ninh Quốc gia và tồn vong của chế độ này. Nhân dân khẩn thiết đề nghị chính quyền, Không thể nhân nhượng được mãi. Phải bắt ngay những kẻ cầm đầu công giáo miền Trung như: Nguyễn Đình Thục, Đặng Hữu Nam….. Đó, cũng là cách “Đánh Rắn dập đầu” để chúng không có cơ hội kích động làm loạn được nữa.
Ngày 16 tháng 5 năm 2017
Nguyễn kim Khanh

Phải bắt ngay tên Nguyễn Đình Thục đó cũng là cách "đánh rắn dập đầu"

Thứ Năm, 9 tháng 2, 2017

Đám đồng đảng chuẩn bị gì cho Bùi Thị Minh Hằng trước khi ra tù?

Chỉ còn 3 ngày nữa, Bùi Thị Minh Hằng chính thức được ra tù (nguồn tin này đã được nhiều trang tin, Fb cá nhân của những người thân cận với Hằng lúc chưa bị bắt xác nhận). Bắc Truyển Nguyễn, người được cho là nguyên cớ và cũng chính là người mời gọi Bùi Thị Minh Hằng đến huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp để rồi sau đó xảy ra chuyện khiến Hằng phải lãnh bản án 3 năm tù giam cũng đã xác nhận điều này.
nbt
Và để đón chào sự “trở về” của Bùi Thị Minh Hằng, Truyển đã không quên tạo ra một món quà tặng ả. Stt mới đây trên Fb, Truyển đã loan báo về điều này như sau: “Đây là facebook của chị Bùi Thị Minh Hằng, chúng tôi làm cho chị Hằng.
Sau khi chị Hằng ra tù, chị sẽ quyết định sử dụng luôn hay thay đổi.
Xin mời kết bạn.
https://www.facebook.com/bui.thiminhhang.58?fref=ts”.
“Sau khi chị Hằng ra tù, chị sẽ quyết định sử dụng luôn hay thay đổi”. Điều này cho thấy Truyển đăng ký tài khoản Fb cho Hằng mà chưa được sự cho phép hay đồng ý từ Hằng.
Lí giải về một hành động tự ý và vi phạm các điều khoản sử dụng Fb này từ Bắc Truyển Nguyễn, có người cho rằng, đó đơn thuần là tình cảm mà đám đồng đảng giành cho Hằng. Và với riêng Truyển thì nó càng đặc biệt bởi dù sao chính Hằng là người đã vào tù thay cho Truyển và cũng vì Truyển mà phải vào tù. Về hành trình khiến Hằng vào tù, xin xem thêm: Tại đây. Đây cũng có thể xem là một cách lí giải cho việc tại sao không phải một ai đó mà Bắc Truyển Nguyễn là người sốt sắng nhất sau thông tin Bùi Thị Minh Hằng sắp được ra tù.
Tuy nhiên, xem chừng đó chưa phải là tất cả lí do khiến Nguyễn Bắc Truyển chuẩn bị một món quà khác người và hợm hĩnh đến thế.
Ai cũng biết rằng, sở dĩ cái tên Nguyễn Bắc Truyển được dư luận biết đến diễn ra trong thời gian Bùi Thị Minh Hằng hay lui tới huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp (quê hương của Truyển) để thực hiện những trò phá phách kiểu ăn vạ. Và với vai trò của một người đứng quan sát (ngư ông đắc lợi), sau những lùm xùm và sự vụ do Bùi Thị Minh Hằng gây ra, không ai khác chính Truyển là người tiên phong loan báo sự việc theo hướng một chiều và kêu gọi quốc tế, dư luận quan tâm và can thiệp.
Chưa hết, với mớ kiến thức pháp lý học chắp vá và cái bằng Luật sư hạng nhược tiểu, với sự giúp sức của một số luật sư tên tuổi, Truyển cũng học đòi tham gia bào chữa không công cho Hằng tại phiên sơ thẩm và phúc thẩm cách đây gần 3 năm!
Bằng một phương thức như thế, Truyển đã không chỉ định hình tên tuổi trong giới dân chủ mà thậm chí gã còn tạo được ít nhiều sự ảnh hưởng. Vậy nhưng, có một thực tế hết sức phũ phàng là sau ngày Bùi Thị Minh Hằng vào tù, có vẻ như tên tuổi, tiếng tăm của Truyển lại quay về con số không tròn trĩnh khi sự quên của dư luận đã đến với Truyển.
Mọi thứ với Truyển lại bắt đầu bùng phát lên khi Truyển nghe thông tin Hằng sắp được ra tù. Với mong muốn dựa hơi Hằng để nổi tiếng như trước và đảm bảo rằng, Hằng sẽ không gác kiếm, quy ẩn giang hồ, Truyển đã nghĩ ra trò đi tắt đón đầu hết sức hợm hĩnh ở trên.
Và kể ra thì Truyển cũng không phải dạng vừa trong việc bày trò ghi điểm với một ai đó gã cần và gã cần dựa dẫm vào. Nhưng nên nhớ rằng, với tính khí của mình, việc Bùi Thị Minh Hằng nhận Fb do Truyển lập ra để sử dụng là chuyện khó xảy ra. Cũng tin chắc rằng, Truyển thừa hiểu điều đó và đó cũng là lí do gã không quên rào đón rằng: “Sau khi chị Hằng ra tù, chị sẽ quyết định sử dụng luôn hay thay đổi”. Mục đích thực hiện một việc mà biết chắc sẽ không được đón nhận của Truyển vì thế là nhằm vớt vát và đánh bóng tên tuổi của bản thân trước một bước ngoặt mới!
Đó cũng là một ví dụ cho thấy sự bế tắc của đám dân chủ cơ hội và nửa mùa!
Nguồn: Việt Nam Thời Báo, An Chiến

Những kỷ lục khó đỡ của Giáo phận Vinh

“Vinh, một giáo phận đông nhất nhì Việt Nam có kỷ lục về lễ truyền chức cho 38 tân chức dịp bế mạc Năm Thánh Lòng Thương xót, nay lại có thêm kỷ lục mới về bổ nhiệm và thuyên chuyển linh mục với tổng số là 108”. Website chính thức của giáo phận Bùi Chu (Gpbuichu.org) đã đánh giá như thế về nhân việc Giáo hội Công giáo địa phận Vinh vừa có quyết định thuyên chuyển, bổ nhiệm 108 vị trí Linh mục trong Giáo phận – một con số mà chưa một Giáo phận nào trong 26 Giáo phận Công giáo tại Việt Nam đạt tới.
bc-1
Trong cách diễn đạt của mình, Website chính thức của giáo phận Bùi Chu (Gpbuichu.org) đã có ý cho rằng, sở dĩ đông như thế, nhiều như thế bởi Giáo phận Vinh là Giáo phận đông nhất nhì Việt Nam. Và đúng là trên thực tế, đông dân số (giáo dân) thì yêu cầu cần có Linh mục coi sóc và chăm lo phần hồn cho họ là tất yếu.
Đó cũng chính là nguyên cớ khiến cho phía giáo hội Công giáo gia tăng hoạt động đào tạo, thụ phong Linh mục và thường thì quá trình này quyết định tới việc số lượng thuyên chuyển, bổ nhiệm sẽ đông đảo hơn, nhiều hơn. (Bởi thông thường sau khi thụ phong cho các tân chức thì một điều tất yếu sẽ xảy ra là phải bố trí địa bàn mục vụ cho họ). Cho nên, nếu nói rằng, Giáo phận Vinh xác lập cùng lúc 02 kỷ lục thì e rằng chưa thực sự chuẩn xác bởi kỷ lục thứ hai chẳng qua là sự sẽ phải xảy ra có tính bắt buộc do điều thứ nhất chỉ lối!
Quay trở lại với “02 nội dung kỷ lục” của giáo phận Vinh theo đánh giá của Website chính thức của giáo phận Bùi Chu. Đúng là Giáo phận Vinh đông dân nhất nhì so với 25 giáo phận còn lại trong cả nước và chính xác là đông thứ hai sau Giáo phận Xuân Lộc hiện đang đứng chân trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Tuy nhiên, thực tế thì điều này không ảnh hưởng quá nhiều tới việc Giáo phận Vinh phải gia tăng đào tạo ồ ạt đến nỗi một khóa học tại Trường Đại chủng viện liên địa phận Vinh – Thanh thụ phong tới 38 tân chức như vừa qua. Nó cũng không ảnh hưởng tới việc phải thuyên chuyển, bổ nhiệm cùng lúc 108 vị trí Linh mục (trong đó bao gồm bổ nhiệm địa bàn mục vụ cho 38 tân chức.
Về lí do xin được giải thích ngắn gọn thế này: Nhìn vào quyết định thuyên chuyển, bổ nhiệm ngày 04/02/2017 do Giám mục địa phận Vinh Phao lô Nguyễn Thái Hợp ký thì rất nhiều vị trí được thuyên chuyển, bổ nhiệm mới trong đó là về “quản họ” hoặc “quản nhiệm chuẩn giáo xứ” (một hình thức biến tướng được cho là cách Giáo phận Vinh đối phó với quy định liên quan tách lập xứ họ đạo). Nghĩa là họ có thừa Linh mục làm nhiệm vụ quản xứ và buộc phải đẩy một số Linh mục xuống quản họ mới đủ địa bàn mục vụ.
Điều này cho thấy, Giáo phận Vinh không thiếu Linh mục đến nỗi phải đào tạo ồ ạt đến mức các Giáo phận khác xung quanh cho đó là kỷ lục? Mà thậm chí họ thừa đến nỗi phải vận dụng vào những hình thức chưa có tiền lệ.
Để giải thích cho việc đào tạo Linh mục ồ ạt của Giáo phận Vinh, cũng có ý kiến cho rằng, họ cần Linh mục để phát triển đạo lên những vùng mà đạo Công giáo chưa đứng chân. Và với một sứ vụ lớn lao như thế, việc cần đông Linh mục là tất yếu! Vậy nhưng, câu hỏi đặt ra là liệu có cần đông đến thế không và liệu có gì mâu thuẫn không khi hầu hết các linh mục được thụ phong chủ yếu được bố trí vào những vị trí quản họ hoặc quản nhiệm chuẩn giáo xứ như đã nói?
Câu hỏi này thêm một lần nữa, Giáo phận Vinh dường như đang tiến hành một cuộc chạy đua về số lượng mà mục đích thực chất đến nay vẫn là một ẩn số??? Số đông thông thường sẽ tạo ra sức mạnh nhưng đông nó cũng tiềm ẩn những nguy cơ bất hòa. Một miếng bánh dành cho một người ăn sẽ không sao nhưng khi chia cho người khác thì ngay lập tức từ miếng bánh đó sẽ sinh ra đủ chuyện! Thiết nghĩ đó là điều mà Giáo hội Công giáo địa phận Vinh cần tính toán để dừng ngay việc chạy đua những con số kỷ lục không cần thiết đang diễn ra!
Nguồn: Việt Nam Thời Báo, Chiềng Chạ

Đặng Hữu Nam – Người chăn chiên hay người mạo danh chúa trời để thần quyền thế tục

Antôn Đặng Hữu Nam là một linh mục của Giáo hội Công giáo Rôma. Từ khi về phụ trách giáo xứ Phú Yên, xã An Hòa (10/3/2014 đến nay), linh mục Đặng Hữu Nam đã có nhiều hoạt động đi ngược lại với tinh thần “sống tốt đời, đẹp đạo” của người công giáo, gây bất bình trong nhân dân và dư luận xã hội, làm mất hình ảnh của một vị linh mục – chủ chăn “nhân lành” của dân chúa, khiến cho bà con công giáo tại giáo xứ Phú Yên nào có được yên ổn làm ăn từ khi cha Nam về giáo xứ đến nay.
chanam
Từ ngày về làm Linh mục chăm lo đời sống tinh thần cho các Lương giáo ở đây Đặng Hữu Nam đã có những việc làm thể hiện “thần quyền” của bản thân thay vì “chăn chiên” như Chúa dạy, có thể điểm qua một số việc làm như:
 – Bắt buộc bà con giáo dân không cho các em nhỏ tham dự ngày tựu trường, buộc các em học sinh phải nghỉ học 1 tháng để gây áp lực với Nhà trường, chính quyền về các yêu sách của linh mục Nam.
– Linh mục Đặng Hữu Nam còn ra tay đánh ông Hồ Vĩnh Lai và cháu Nguyễn Văn Lực phải vào bệnh viện Quỳnh Lưu cấp cứu trong tình trạng cực kỳ nguy kịch (báo điện tử Nghệ An đã có bài ngày 21.11.2016).
– Linh mục Đặng Hữu Nam thường xuyên yêu cầu bà con giáo dân không được đi làm, không hành nghề đi biển mà phải tập trung ở Nhà thờ để nghe giảng đạo, viết Đơn thư khởi kiện. Những ai không nghe theo sẽ bị cắt phúc lợi, không được ban bánh thánh, không được rửa tội, không được Cha chúc phúc.
– Công văn 7533 của UBND Quỳnh Lưu ngày 7/10/2016 nhắc đến:
  1. LM Nam đã lợi dụng các cuộc lễ tại một số nhà thờ của các giáo xứ, giáo họ trên địa bàn Nghệ An để rao giảng, kích động, nói xấu Đảng, Nhà nước và những người theo Đảng, xuyên tạc chống phá chế độ.
  1. Thường xuyên có các hoạt động gặp gỡ, tiếp đón các số đối tượng là thành viên của tổ chức phản động “Việt Tân” và cho số này trú ngủ trong nhà thờ xứ như các đối tượng: Thái Văn Dung (Diễn Hạnh, Diễn Châu), Trần Minh Nhật (Lâm Hà, Lâm Đồng)…
  1. Lợi dụng sự cố môi trường do Fomosa gây ra để nói xấu trắng trợn nổ lực của các cơ quan, ban ngành, rao giảng nội dung sai trái, nói xấu chính quyền, kích động giáo dân gây phức tạp an ninh trật tự và ảnh hưởng tới cuộc sống, lao động sản xuất của người dân (tối 26 tháng 9 2016 tại giáo xứ Đông Yên, Kỳ Anh, Hà Tĩnh).
Các vụ biểu tình, kéo giáo dân từ Giáo xứ Phú Yên qua Hà Tĩnh để khiếu kiện, Linh mục Nam yêu cầu người Công giáo phải chạy xe máy thành hàng 4 hàng 5, có người ngồi sau cầm cờ để thị uy gây chú ý, phô trương thanh thế. Những hành động này đã bị lực lượng CSGT Hà Tĩnh xử lý VPHC theo Luật Giao thông và Nghị định, Thông tư hướng dẫn. Điều lưu ý ở đây là, việc chi trả các khoản phạt vi phạm giao thông này người dân Công giáo tham gia phải tự chi trả chứ Nhà thờ không chịu một khoản nào.
Thấy không thể tiếp tục việc buộc người dân dùng xe máy để di chuyển gây thanh thế, linh mục Nam lại chuyển qua phương thức khác là thuê Taxi. Cụ thể, ngày 18/10/2016 linh mục Đặng Hữu Nam của giáo xứ Phú Yên (Quỳnh Lưu, Nghệ An) thuê rất nhiều xe cho hơn 1.000 người đi từ Giáo xứ Phú Yên tới thị xã Kỳ Anh Hà Tĩnh để thị uy và tổ chức khiếu kiện. Nhưng khi đi được gần nửa đường các tài xế Taxi đều từ chối chở khách đi tiếp với nhiều lý do vì vùng đi đến là nơi đang có bão lụt, đồng thời các tài xế trên xe khi nghe các “hành khách” bàn với nhau về việc vung cờ, tung truyền đơn và cả biểu tình tại Kỳ Anh để gây bất ổn An ninh trật tự đều tỏ ra lo sợ vì có khả năng họ sẽ dính vào vòng lao lý, và cũng chưa chắc đã được thanh toán cước phí. Do đó, các lái xe đã thông báo cho nhau, và một số đã từ chối đi tiếp. Như vậy, việc các Tài xế Mai Linh không tiếp tục chở Giáo dân nữa bởi do họ tự ý thức được việc họ đang bị lợi dụng cho một hành động vi phạm pháp luật.
14650530_755976847875047_7031545252969889979_n
Khi bị từ chối chuyên chở, linh mục Đặng Hữu Nam đã ngay lập tức vu cáo lãnh đạo tập đoàn Mai Linh là có hành động chống lại Công giáo, gây tổn hại đến quyền lợi của người dân đi khiếu kiện. Tuy nhiên, nếu chú ý kỹ thì việc trước đó 1 Giáo xứ thuê hàng trăm xe để di chuyển với hơn 1000 người thì lãnh đạo Mai Linh đã có thể yêu cầu Tài xế không chuyên chở ngay từ đầu như thế Mai Linh vừa tránh mất tiếng, càng không thể vị vu cáo gây hại đến Công giáo và lại đỡ tốn tiền xăng xe di chuyển cả quảng đường; Doanh nhân thành đạt như ông Hồ Huy luôn biết cân đo thiệt hại để đưa ra đối sách vẹn toàn. Đồng thời, trực tiếp ông Hồ Huy đã có tuyên bố chính thức gửi đến linh mục Nam về vấn đề này, và linh mục Nam đã im lặng không có phát ngôn gì thêm.
Và theo ghi nhận từ Linh mục Lê Ngọc Thanh, tới ngày 04/09/2016, số tiền gửi về ủng hộ ngư dân miền Trung khởi kiện là 347,55 triệu vnđ + 8850 usd + 2050 aud + 300 € (Nếu tính hoàn toàn ra tiền Việt Nam thì được hơn 500 triệu). Trong vòng gần 4 tháng qua số tiền mà linh mục Đặng Hữu Nam đã nhận rất nhiều nhưng bà con Giáo dân ở đó đã được hưởng lợi gì chưa ? Đây là câu hỏi sẽ không một ai trong Giáo xứ Phú Yên dám nói khi “Thần quyền” Đặng Hữu Nam còn tại vị.
Nguồn: Việt Nam Thời Báo, Hồng Vũ.

Phản động lại tung tin thất thiệt về đổi tiền

Mới đầu xuân mới, lũ giòi bọ ba que lại tiếp tục tung tin thất thiệt, rằng Việt Nam sẽ đổi tiền vào ngày 6/2/2017 ngay sau tết Đinh Dậu. Một loạt trang mạng như “Thông tin hai chiều”, “Việt Nam News” đã đăng bài “TIN NÓNG: Việt Nam công bố mẫu tiền mới sẽ được đổi ngày 6/2/2017 ngay sau tết Đinh Dậu (Video)”. Rất tiếc, đã có một số người tiếp tay cho đám bất lương bằng cách share bài, tung lên mạng.
Thật ra, chiều tung tin thất thiệt về đổi tiền không mới và thể hiện sự bất lực của đám vong nô trước sự phát triển của đất nước, nhưng ít nhiều sẽ gây thiệt hại. Nhẹ thì nghi ngờ, nặng hơn chút thì rút tiền khỏi ngân hàng và tâm lý hoang mang là không tránh khỏi.
1-1
Bài viết xuyên tạc đó khẳng định “Việt Nam công bố mẫu tiền mới sẽ được đổi ngày 6/2/2017 ngay sau tết Đinh Dậu” và lập luận cực ngây ngô về lý do đổi tiền: “Bằng chứng đang hiển hiện là bất chấp thị trường bất động sản từ Bắc chí Nam vẫn tồn kho vài ba chục ngàn căn hộ cùng đất nền bao la, vẫn xuất hiện một dòng tiền chảy vào khu vực này trong những tháng qua. Bằng chứng rõ ràng hơn là xu hướng người dân đã rút tiền gửi tiết kiệm để mua đất đang tăng dần với lý do hết sức đơn giản “Ôm đất thì đất còn đó, chứ giữ tiền thì chẳng biết còn lại được bao nhiêu”, rồi dẫn chứng cực ất ơ như kẻ tâm thần phân liệt. Xin dẫn nguyên văn:
Một người bạn inbox yêu cầu dấu tên và FB. (t) là mẫu tự đầu tên của bạn ấy xác nhận tin là sự thật:
tôi có coi clip về vụ đổi tiền của bạn trong clip có đề cập đến đoạn người Trung Cộng hiện vô đây rất nhiều
t ở khu phố Tây đường Bùi Viện thì thấy đúng thật là những ngày tết gần đây những lượt khách du lịch ng TQ vô đây rất nhiều so với tết mọi năm thì đa phần là nhân viên làm việc về visa du lịch ngta nghỉ lễ nên hầu hết khách du lịch người Tây họ về nước chỉ có tết năm nay t cảm thấy có điều gì bất ổn những ngày cận tết mà hầu hết là khách du lịch TQ vô đây rất nhiều
t chỉ xác nhận hiện tại là lượng khách du lịch ng TQ hiện đang ở khu phố Tây nhiều hơn mọi năm trong khi khách du lịch Tây Âu thì họ đa phần đểu về nước
t coi xong clip về vụ đổi tiền thấy rất lo còn về thông tin khách du lịch TQ nhiều hơn bất thường mà t vừa xác nhận
t xin được giấu tên cũng như FB b đừng nêu ra”
Thật ra, đây cũng là tin vịt được xào xáo lại từ bài “Ngân Hàng NN công bố mẫu tiền mới in từ TQ đã chuyển hết về VN để phục vụ việc đổi tiền”, được đăng trên trang Tin Tức Hàng Ngày hô 5/12/2016. Chỉ có điều, não trạng của kẻ xào xáo ở tầm trẻ trâu hủi nô.
Tổ sư, làm cách mạng kiểu ba que thì có mà bốc cứt ăn vã. Tung tin “cách mạng” mà bịa đặt ngu ngốc như tác giả bài viết thì các anh chị bị đá đít là điều dễ hiểu.
Nhắc lại, hôm 5/12/2016 trang Tin Tức Hàng Ngày đăng bài “Ngân Hàng NN công bố mẫu tiền mới in từ TQ đã chuyển hết về VN để phục vụ việc đổi tiền” với nội dung cho là Việt Nam sắp đổi tiền do lạm phát. Bài viết còn cho biết, lượng tiền mới đã in xong ở Trung Quốc, đang chuẩn chuyển về Việt Nam, kèm theo mẫu tiền như hình dưới đây:
1459766843-ngan-hang-nha-nuoc-phat-hanh-tien-luu-niem-100-dong1459766843-ngan-hang-nha-nuoc-phat-hanh-tien-luu-niem-100-dong-1
Ngay sau khi bài viết kèm những hình ảnh “đồng tiền mới” được đăng, các “tinh hoa dân chủ” trong nước ngay lập tức nhảy vào chia sẻ và bình luận như đúng rồi.
Xem hình đồng tiền mà các anh chị dân chủ post lên làm minh chứng cho tờ “tiền mới được in từ Trung Quốc”, người hiểu biết sẽ phì cười vì biết kẻ viết bài là loại suy nghĩ bằng lỗ đít. Đơn giản, đây là đồng tiền lưu niệm mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành để kỷ niệm 65 năm thành lập Ngân hàng Nhà nước (6/5/1951 – 6/5/2016) và đó là loại tiền không có giá trị thanh toán, lưu thông.
Tờ tiền lưu niệm sẽ được phát hành ngày 6/5/2016 nhằm ghi nhận bước phát triển của ngành Ngân hàng, đồng thời tuyên truyền, quảng bá hình ảnh đất nước, lịch sử dân tộc và đồng tiền Việt Nam với đông đảo người dân và bạn bè quốc tế. xem hình dưới do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cung cấp:
Tờ tiền lưu niệm 100 đồng có kích thước to hơn các tờ tiền polymer thông thường với chất liệu cotton màu đỏ. Mặt trước in hình quốc huy, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, dòng chữ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, mệnh giá 100 đồng in đậm với logo 65 năm kỷ niệm thành lập Ngân hàng Nhà nước. Mặt sau in hình trụ sở Ngân hàng Nhà nước.
Được biết tờ tiền lưu niệm 100 đồng sẽ có giá bán 20.000 đồng/tờ (loại tờ rời) và 25.000 đồng/tờ (loại được bọc trong phong bao, kèm chú thích song ngữ Việt – Anh). Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng Thương mại sẽ tổ chức bán 2 loại tiền rộng rãi trên toàn hệ thống để phục vụ các cá nhân, tổ chức có nhu cầu. Đây là lần thứ 2 Ngân hàng Nhà nước phát hành tiền lưu niệm. Đợt phát hành lần thứ nhất là loại tiền lưu niệm mệnh giá 50 đồng kỷ niệm 50 năm thành lập Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (1951 – 2001).
Sơ lược như vậy để thấy não trạng dân chủ giòi bọ của đám lưu manh ba que cũng như đám dân chủ trĩ mồm ở trong nước mạt hạng đến thế nào.

Nguồn: Việt Nam Thời Báo, Vũ Khánh Sơn

Đằng sau nickname Người Buôn Gió là một nhóm chống phá?

Blogger Phạm Viết Đào vừa có một bài phân tích khá kỹ về Bùi Thanh Hiếu (Người Buôn Gió) qua loạt bài phỏng vấn Trịnh Xuân Thanh. Có nhiều vấn đề có lẽ thuộc loại nhạy cảm nên ông Phạm Viết Đào không nói thẳng ra “Người Buôn Gió” hiện nay bị một nhóm người nào đấy chuyên tấn công có định hướng vào cá nhân Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, gây mất đoàn kết nội bộ và phá hoại chế độ.
nbg-txt4-1
Khi những thế lực thù địch hồ hỡi với những thông tin về Trịnh Xuân Thanh đăng trên blog Người Buôn Gió thì con đường sống của Bùi Thanh Hiếu đang ngắn dần. Y đã bị các thế lực thù địch mua chuộc và khống chế trước Đại hội 12. Blog Người Buôn Gió trở thành địa chỉ các thế lực thù địch tung tin bôi nhọ các lãnh đạo Đảng, Chính phủ theo kiểu tuyên truyền chuyên nghiệp thâm độc của Adolf Hitler “mưa dầm thấm lâu” “chuyện giả nói mãi cũng thành sự thật”.
Xuất thân từ thằng ma cô, buôn bán ma tuý, Bùi Thanh Hiếu không phải là Julian Assange có đủ trình độ công nghệ để đánh cắp thông tin, đủ chữ nghĩa để viết một bài báo hoàn chỉnh. Nhằm che giấu động cơ của mình, nhóm người ẩn sau lưng nickname Người Buôn Gió đã bốn lần đặt vào miệng Bùi Thanh Hiếu cụm từ “có liên quan đến chính trị” trong một entry vu vơ về tên giang hồ Vũ Cận nào đấy.
Trước sau như một, mãi mãi Bùi Thanh Hiếu chỉ là tên tội phạm đường phố, không bao giờ “có liên quan đến chính trị”. Bản chất con người ai cũng tham sống sợ chết, nhất là trong hoàn cảnh éo le nuôi con nhỏ, không được cấp quốc tịch nên Bùi Thanh Hiếu không bao giờ dám to tiếng thách thức cả một hệ thống chính trị của một quốc gia nếu y không bị khống chế.
Hiện nay các cơ quan chức năng đang âm thầm truy bắt Trịnh Xuân Thanh. Vụ án PVC liên quan đến Trịnh Xuân Thanh sẽ làm sáng tỏ “Người Buôn Gió” là ai trong thời gian tới. Lịch sử tư pháp Việt Nam sẽ ghi nhận trong một giai đoạn phát sinh ra loại tội phạm tham ô, tham nhũng nhưng lớn tiếng mạt sát cá nhân lãnh đạo và chửi bới cả một thể chế. Đó là loại tội phạm được gọi tên là “nhóm lợi ích”!
Nguồn: Việt Nam Thời Báo,Hoàng Hải

Trí tuệ quản lý

 Lê Qúy Đôn cho rằng: “Phi nông bất ổn - Phi công bất phú - Phi thương bất hoạt - Phi trí bất hưng”

Có thể hiểu kinh tế tri thức là một nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Và trong nền kinh tế đó, tri thức đóng vai trò quyết định hàng đầu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia, bởi lẽ tri thức là bộ phận nguồn lực quan trọng nhất, quyết định nhất của lực lượng sản xuất hiện đại, mà trình độ phát triển của lực lượng sản xuất lại đóng vai trò quyết định sự phát triển xã hội.
Với nhận định, thời gian tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức; hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn; toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy mạnh, Đại hội Đảng lần thứ XII xác định cần nỗ lực tập trung: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hoà bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”(1).
Mặc dầu kinh tế Việt Nam trong hơn 30 năm qua đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận với chính sách đổi mới, chuyển sang kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Việt Nam đạt sự tăng trưởng nhanh trong những năm đầu thập kỷ 90 thế kỷ XX, tiếp đó, vượt qua tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính khu vực, tiếp tục tăng trưởng khá trong thập niên đầu thế kỷ XXI… Tuy nhiên, để tiếp tục bước đi cùng một nhịp với thời đại - thời đại tri thức và thông tin, cần đổi mới tư duy dựa trên phát triển trí tuệ con người, coi tri thức là nguồn gốc của mọi của cải; coi trọng tài sản trí tuệ hơn tài sản hữu hình; đội ngũ trí thức là chủ thể của nền kinh tế tri thức, và cũng chính họ là trụ cột của nền công vụ. Một nền kinh tế không dựa vào nguồn lực trí tuệ, không được quản trị tốt sẽ không có sức cạnh tranh trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay.
Trong nền kinh tế tri thức: trọng tâm của quản lý kinh tế cần chuyển từ quản lý nguồn lực vật chất (hữu hình) sang quản lý nguồn lực trí tuệ (vô hình), tức là chuyển sang quản lý tri thức và quản lý dựa trên tri thức, khơi dậy các năng lực sáng tạo, tạo ra tri thức mới và sử dụng có hiệu quả tri thức, biến tri thức thành giá trị. Từ đó, vai trò của chính phủ sẽ chuyển từ chức năng kiểm soát, chỉ huy sang chức năng kiến tạo phát triển, tức chức năng định hướng phát triển và chức năng bà đỡ cho nền kinh tế, tạo cơ hội bình đẳng cho mọi người sản xuất kinh doanh, chăm lo nuôi dưỡng các khả năng sáng tạo, phát triển các nhân tố mới. Như vậy, cần từ bỏ cung cách quản lý quan liêu, kiến tạo một nền công vụ hướng tới thúc đẩy quá trình đổi mới dựa trên sự “thiết lập hệ thống đổi mới sáng tạo trong toàn nền kinh tế, tạo sự liên kết hữu cơ khoa học - đào tạo - sản xuất kinh doanh, cơ chế tài chính, tín dụng thỏa đáng”; phát triển thị trường công nghệ, quỹ đầu tư mạo hiểm, các khu công nghệ cao, vườn ươm công nghệ, vườn ươm doanh nghiệp, phát triển hệ thống cụm tri thức (knowledge cluster) từ trung ương đến các vùng, các địa phương để hỗ trợ thúc đẩy việc tạo và nhanh chóng sử dụng tri thức sát với tình hình cụ thể; thực thi chính sách thỏa đáng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với từng giai đoạn phát triển, theo nguyên tắc bảo đảm hài hòa lợi ích của người sáng tạo, người sử dụng và lợi ích chung của xã hội, lợi ích của đất nước. Đổi mới sáng tạo (innovation) trở thành động lực chủ yếu của sự tăng trưởng và phát triển khi nó tạo ra những của cải và các giá trị mới. Điều đó đòi hỏi phải đầu tư cho vốn tri thức, phát triển vốn tri thức, không ngừng nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới trong mọi lĩnh vực, không loại trừ lĩnh vực quản lý nhà nước, để có được cách thức quản trị, điều hành mới, tạo những sản phẩm mới, khác biệt, thậm chí duy nhất. 
Để “xây dựng một nền công vụ chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch, hiệu quả vì nhân dân, phục vụ nhân dân, góp phần quan trọng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, phòng chống tham nhũng và bảo đảm sự thành công của công cuộc cải cách mà Đảng và Nhà nước ta đang quyết tâm thực hiện”(2) cần “phát huy trí tuệ tập thể”. Song, cũng cần ý thức rõ ràng rằng trí tuệ tập thể bao gồm các yếu tố cấu thành. Trong nền công vụ đó là “trí tuệ quản lý” - một hình thức biểu hiện đặc biệt của “trí tuệ tập thể”, một loại hình “trí tuệ chuyên môn” quản lý. Trí tuệ quản lý là sự tổng hợp đặc biệt một số phẩm chất trí tuệ xã hội và “phổ quát”, tổ hợp lô-gic và bản năng, với phong cách tư duy nổi trội là tính tổng hợp, phân tích và hữu dụng. Trí tuệ quản lý có ý nghĩa tác động to lớn đến hiệu quả của nền công vụ - hoạt động do công chức nhân danh nhà nước thực hiện theo quy định của pháp luật và được pháp luật bảo vệ nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân. Sự tác động đó tương ứng với tính thứ bậc của nền công vụ. Chức vụ càng cao thì cái giá phải trả cho các sai lầm quản lý cũng càng cao. Có sai lầm ảnh hưởng đến một cá nhân, một tập thể, có sai lầm mà có thể cả một dân tộc phải hứng chịu.
Phân tích đặc thù hoạt động chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức cho thấy trong hoạt động công vụ nảy sinh và hình thành các yếu tố cấu thành của “trí tuệ chuyên môn” như: năng lực và kỹ năng sử dụng hiệu quả các công cụ hoạt động; năng lực tư duy chiến lược sâu và linh hoạt cao, sáng tạo và độc đáo, phân tích lô-gic “phản biện sâu”; hoạch định và tổ chức thực hiện công việc khoa học, có tính tác nghiệp cao, cẩn trọng và tập trung; khả năng phán đoán, phòng ngừa rủi ro, đánh giá khách quan các hậu quả, quyết đoán nhanh trong điều kiện hạn chế về thời gian, trên cơ sở kết hợp với các yếu tố của tư duy trí tuệ xã hội như năng lực tương tác và phối hợp hiệu quả với các đồng nghiệp trong thực thi công vụ.
Người cán bộ, công chức hiện đại với “trí tuệ quản lý” cần là người có:
- Ý chí, nỗ lực quyết tâm; có tích luỹ kinh nghiệm, biết không ngừng trau dồi kiến thức và học hỏi để hoàn thiện mình. Năng lực lãnh đạo là cả một quá trình mà tại đó một cá nhân có ảnh hưởng lên những người khác để họ hoàn thành một mục tiêu và một hướng dẫn nào đó theo phương cách nối kết với nhau sao cho có hiệu quả nhất. Các nhà lãnh đạo thực hiện quá trình này bằng chính các kỹ năng chỉ huy của mình, chẳng hạn như lòng tin, sự tôn trọng, cách ứng nhân xử thế, tính cách, với tư duy sắc sảo của người lãnh đạo (có lô-gic + tầm nhìn), cảm nhận được thực tiễn và luôn đi thẳng vào vấn đề. 
- Có đủ năng lực, tinh thần trách nhiệm, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đặc biệt đối với cán bộ, công chức lãnh đạo phải là người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề trong những hoàn cảnh khó khăn; khi thất bại không hoang mang, khi thắng lợi không kiêu ngạo; luôn luôn giữ đúng kỷ luật.
- Thẩm thấu sâu sắc các giá trị cơ bản cơ bản của nền công vụ: bảo đảm hiệu lực và hiệu quả quản lý; tính trách nhiệm trước Nhà nước và trước nhân dân; tuân thủ pháp luật, thực hiện công bằng xã hội; tôn trọng cống hiến, công trạng và thành tích của công chức; bảo đảm quyền và nghĩa vụ của cán bộ, công chức.
- Có khả năng tiếp cận mới với các vấn đề về chính trị, kinh tế, hành chính, tư pháp, pháp lý, xã hội học, văn hóa dân tộc và sự dung hòa các nền văn hóa khác nhau, vấn đề quốc gia, dân tộc, quản trị công… trong thời đại tri thức, khi nhiều quan niệm, khái niệm thay đổi và xuất hiện mới. 
- Năng lực xác lập các mối quan hệ nhân quả và vấn đề then chốt (“mắt xích” quan trọng; khâu đột phá), mà tập trung vào giải quyết sẽ quyết định được các vấn đề khác.
- Khả năng mô hình hoá các quá trình, quy trình, dự báo (đoán định) được sự phát triển và các hệ quả của hoàn cảnh gắn liền với hoạt động của cơ quan, tổ chức để có cơ sở đưa ra các quyết định quản lý tương ứng.
- Hiểu biết sâu sắc các quan tâm, lợi ích, động cơ và tâm lý con người, năng lực lựa chọn cán bộ, công chức cho các vị trí chủ chốt, tập hợp, đoàn kết và tập trung nỗ lực tập thể cho việc giải quyết các vấn đề đặt ra.
- Năng lực thao tác một khối lượng rất lớn các dữ liệu luôn biến động trong xây dựng các kế hoạch dài hạn và ngắn hạn.
- Tư duy đánh giá phê phán, kỹ năng học tập qua “rút kinh nghiệm”, hiểu biết bản chất các nguyên tắc quản lý, tính cần thiết của các biện pháp cứng rắn và không thông thường trong quan hệ với cấp dưới để đảm bảo tính thứ bậc của nền công vụ.
- Từ điển Pratique du Francais 1987 định nghĩa rất gọn rằng: "Công vụ là công việc của công chức". Như vậy, người cán bộ, công chức cần đảm bảo những yêu cầu về tính chuyên nghiệp của đội ngũ công chức như: tinh thông nghiệp vụ; có các kỹ năng thuần thục để thực thi các nghiệp vụ đó; hiểu rõ và biết vận dụng những nguyên tắc quản lý điều hành như một khoa học và nghệ thuật; hiểu rõ và thực thi đúng quy chế công vụ.
- Đủ năng lực cảm nhận và thực hành các giá trị nhân văn của nền công vụ, khi định hình được tri thức văn hoá nền tảng, “cốt lõi”; xác định rõ phạm vi các khái niệm tinh thần - đạo đức cơ bản và đưa chúng trở thành các hành vi công vụ; xác định được các yếu tố thúc đẩy sự chuyển biến các giá trị nhân văn của giáo dục - giáo dưỡng vào hoàn thiện nhân cách cán bộ, công chức, trên tinh thần đảm bảo mỗi cá nhân sẽ ý thức được các giá trị cơ bản (nền tảng) của cá nhân trong quá trình phát triển nhân cách.
Piter Drucker, nhà quản trị học người Mỹ đã có nhận định rằng: trong thế kỷ XXI, cơ sở nền tảng (nguyên tắc) của hoạt động doanh nghiệp được chuyển từ “dựa trên tổ chức tối ưu hóa” sang “dựa trên tri thức và thông tin”, tức là phần lớn công việc được thực hiện bởi các chuyên gia “tư duy chiến lược”. Trong quản lý nhà nước, nguyên tắc đó cũng rất phù hợp. Dựa vào đó, cần ý thức được rằng: cần có cơ chế quản lý từ “trung tâm đầu não”, nơi nghiên cứu và dự báo các vấn đề mới nảy sinh, còn các đơn vị thừa hành vẫn tiếp tục thực hiện giải quyết các vấn đề đã đặt ra. Những vấn đề dự báo không chỉ có tính lâu dài, mà có thể có tính cấp thiết cần được giải quyết ngay.
Những tri thức và thông tin cần thiết để giải quyết những vấn đề xã hội có thể có được từ 2 nguồn: phương pháp “thử nghiệm” và nghiên cứu khoa học. Phương pháp thử nghiệm dựa trên lựa chọn ngẫu nhiên một trong các phương án giải quyết vấn đề và phân tích các kết quả đạt được. Sau một loạt các thử nghiệm sẽ hình thành kinh nghiệm nhất định (tích cực và tiêu cực). Kinh nghiệm đó sẽ trở thành cơ sở của những tri thức về vấn đề. Trong khi đó, những phương pháp nghiên cứu khoa học hướng tới tìm kiếm các tri thức mới trên cơ sở tiến hành các nghiên cứu chuyên biệt.
Các quyết định được lựa chọn không phải ngẫu nhiên, mà xuất phát từ “tầm nhìn” (hình dung) về hình mẫu (mô hình) vấn đề, tức là hình dung về hệ quả của quyết định đã được lựa chọn. Nếu vấn đề nảy sinh được giải quyết thành công sẽ tạo niềm tin đối với mô hình và tạo ra tri thức về cách giải quyết vấn đề nếu xảy ra tương tự trong tương lai. 
Mô hình quản lý giải quyết những vấn đề mới nảy sinh dựa trên sử dụng hai dạng tri thức, là:
- Tri thức phản ánh kinh nghiệm của mình và thế giới (tích cực và tiêu cực) trong giải quyết vấn đề quản lý;
- Tri thức có được từ mô hình hóa vấn đề và tiến hành các thử nghiệm khoa học đối với mô hình đó.
Tri thức, các tư tưởng và mô hình văn hóa quản lý là sản phẩm của hoạt động sáng tạo của con người làm cơ sở tạo lập văn hóa xã hội, trong đó phản ánh kinh nghiệm thực tiễn và nghiên cứu khoa học trong giải quyết vấn đề. Khác với các thiết chế, sáng kiến và phương thức giải quyết vấn đề hướng tới giải quyết các vấn đề cụ thể, tri thức mang tính phổ quát và cần thiết để giải quyết tất cả mọi vấn đề, tạo ra tri thức như là sản phẩm tinh thần được tích lũy trong xã hội đảm bảo tính tiến bộ của phát triển xã hội.
Quản lý bằng tri thức là một hình thức quản lý dựa trên tri thức về vấn đề, tức là những thông tin cần thiết để xác định và giải quyết các vấn đề quản lý tổ chức. Tri thức sẽ giúp và đảm bảo giảm thiểu tính vô định và rủi ro trong việc ra quyết định, nhất là đối với những quyết định có thể là sai lầm. Thị trường thông tin ngày càng phát triển như vũ bão, thông tin trở thành hàng hóa, được coi là nguồn của tri thức (knowledge resources). Hình thành đội ngũ chuyên gia về tri thức (knowledge officers) có trách nhiệm đảm bảo thông tin cho quá trình ra các quyết định quản lý trong đội ngũ cán bộ, công chức là hết sức cần thiết. Từ đó nảy sinh vấn đề hệ thống hóa tri thức nhằm tìm kiếm nhanh chóng các thông tin cần thiết. Đặc biệt là việc cần thiết chuyển từ hệ thống thông tin theo ngành, lĩnh vực (tài chính, kinh tế, văn hóa… ) sang hệ thống theo “tư duy vấn đề” nhằm giải quyết ngay và càng nhanh chóng hiệu quả hơn các vấn đề quản lý.
Công cuộc cải cách và đổi mới nền hành chính nhà nước trong giai đoạn trước mắt đang đứng trước những thách thức của sự chuyển đổi về chất sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Sự vận hành nền kinh tế theo các quy luật của thị trường đòi hỏi phải đổi mới mạnh mẽ vai trò, chức năng của Nhà nước nói chung và của nền hành chính nhà nước nói riêng, đòi hỏi phải chuyển mạnh sang nền hành chính “phục vụ". Phải thấy rằng hội nhập quốc tế và khu vực vừa là thời cơ, thuận lợi, vừa đặt ra thách thức mới đối với nền hành chính nhà nước; quá trình đẩy mạnh dân chủ hóa đời sống xã hội, các yêu cầu về phát huy dân chủ cơ sở, thu hút mạnh mẽ sự tham gia của người dân vào quản lý nhà nước, về đảm bảo tính công khai, minh bạch trong thể chế, chính sách, thủ tục hành chính cũng như trong thực thi công vụ đòi hỏi, buộc các cơ quan nhà nước và các cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính phải thích ứng cả về nội dung lẫn phương thức hoạt động; đồng thời các tiến bộ khoa học, công nghệ, yêu cầu hiện đại hóa nền hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử có tác động mạnh mẽ, trực tiếp tới tổ chức, hoạt động của các cơ quan trong hệ thống hành chính, tới việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cả về trình độ, năng lực, ý thức trách nhiệm và tác phong, phương pháp công tác. Hơn thế nữa, ảnh hưởng của cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp trước đây, sức ỳ của nền hành chính cũ đang in đậm trong nếp nghĩ, cách làm của đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy, đang là trở ngại, thách thức lớn đối với công cuộc cải cách và hiện đại hoá hành chính nhà nước hiện nay.
Tóm lại, để phấn đấu có được một nền hành chính thật sự dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại, phù hợp với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong điều kiện mở cửa hội nhập quốc tế hướng tới xây dựng nền kinh tế tri thức, cần hiểu rõ rằng: Tri thức và công nghệ thông tin làm chuyển đổi rất nhanh cơ cấu kinh tế xã hội. Các công nghệ cao, truớc hết là công nghệ thông tin là nguồn gốc mọi sự biến đổi lớn lao trong sản xuất xã hội, góp phần đẩy mạnh cả sự đổi mới tư duy và tất yếu dẫn tới nền kinh tế tri thức toàn cầu hoá. Tri thức và thông tin luôn luôn đi tới những nơi có nhu cầu cao nhất và bị ít rào cản nhất. Vì vậy, cần đổi mới toàn diện các lĩnh vực: đổi mới mô hình tăng trưởng theo định hướng kinh tế tri thức, đổi mới doanh nghiệp theo hướng doanh nghiệp tri thức, đổi mới toàn diện và triệt để giáo dục và đào tạo, xây dựng đội ngũ trí thức đủ năng lực sáng tạo, xây dựng đội ngũ công nhân tri thức, xây dựng xã hội học tập, đổi mới hệ thống khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực khoa học và công nghệ quốc gia, phát triển mạnh hạ tầng thông tin, xây dựng xã hội thông tin, hình thành hệ thống đổi mới sáng tạo có thể nhanh chóng biến tri thức thành giá trị. Vốn tri thức xã hội gắn liền với vốn con người - những nguồn lực cơ bản của phát triển. Tài nguyên là có hạn, tri thức, sự sáng tạo là vô hạn. Sức mạnh cạnh tranh trên mọi lĩnh vực ngày nay là cạnh tranh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, là chuyển dịch hiệu quả từ trang bị kiến thức sang bồi dưỡng năng lực trong một xã hội học tập suốt đời, kể cả trong nền công vụ. Một nền công vụ hiện đại phải là “trí tuệ”, với đội ngũ cán bộ, công chức có tính chuyên nghiệp cao. Tương lai phát triển của đất nước phụ thuộc phần lớn vào đội ngũ cán bộ, công chức trí tuệ, chuyên nghiệp, tận tụy phục vụ xã hội. Sự kích hoạt đối với chuyển động đó không là gì khác, ngoài ý chí chính trị của Đảng và sự nhất quán hành chính của Nhà nước./.
-------------------------------------------
Chú thích:
1. Nghị quyết Đại hội dại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII.
2. Nguyễn Xuân Phúc. Quyết tâm cải cách công vụ, công chức để xây dựng một nền hành chính phục vụ nhân dân. Cổng TTĐT Chính phủ.http://baodientu.chinhphu.vn
PGS.TS. Lưu Kiếm Thanh, PGS.TS. Ngô Thành CanHọc viện Hành chính quốc gia
Nguồn chép: Tạp Chí Cộng Sản

Trí tuệ quản lý

 Lê Qúy Đôn cho rằng: “Phi nông bất ổn - Phi công bất phú - Phi thương bất hoạt - Phi trí bất hưng”

Có thể hiểu kinh tế tri thức là một nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Và trong nền kinh tế đó, tri thức đóng vai trò quyết định hàng đầu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia, bởi lẽ tri thức là bộ phận nguồn lực quan trọng nhất, quyết định nhất của lực lượng sản xuất hiện đại, mà trình độ phát triển của lực lượng sản xuất lại đóng vai trò quyết định sự phát triển xã hội.
Với nhận định, thời gian tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức; hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn; toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy mạnh, Đại hội Đảng lần thứ XII xác định cần nỗ lực tập trung: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hoà bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”(1).
Mặc dầu kinh tế Việt Nam trong hơn 30 năm qua đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận với chính sách đổi mới, chuyển sang kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Việt Nam đạt sự tăng trưởng nhanh trong những năm đầu thập kỷ 90 thế kỷ XX, tiếp đó, vượt qua tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính khu vực, tiếp tục tăng trưởng khá trong thập niên đầu thế kỷ XXI… Tuy nhiên, để tiếp tục bước đi cùng một nhịp với thời đại - thời đại tri thức và thông tin, cần đổi mới tư duy dựa trên phát triển trí tuệ con người, coi tri thức là nguồn gốc của mọi của cải; coi trọng tài sản trí tuệ hơn tài sản hữu hình; đội ngũ trí thức là chủ thể của nền kinh tế tri thức, và cũng chính họ là trụ cột của nền công vụ. Một nền kinh tế không dựa vào nguồn lực trí tuệ, không được quản trị tốt sẽ không có sức cạnh tranh trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay.
Trong nền kinh tế tri thức: trọng tâm của quản lý kinh tế cần chuyển từ quản lý nguồn lực vật chất (hữu hình) sang quản lý nguồn lực trí tuệ (vô hình), tức là chuyển sang quản lý tri thức và quản lý dựa trên tri thức, khơi dậy các năng lực sáng tạo, tạo ra tri thức mới và sử dụng có hiệu quả tri thức, biến tri thức thành giá trị. Từ đó, vai trò của chính phủ sẽ chuyển từ chức năng kiểm soát, chỉ huy sang chức năng kiến tạo phát triển, tức chức năng định hướng phát triển và chức năng bà đỡ cho nền kinh tế, tạo cơ hội bình đẳng cho mọi người sản xuất kinh doanh, chăm lo nuôi dưỡng các khả năng sáng tạo, phát triển các nhân tố mới. Như vậy, cần từ bỏ cung cách quản lý quan liêu, kiến tạo một nền công vụ hướng tới thúc đẩy quá trình đổi mới dựa trên sự “thiết lập hệ thống đổi mới sáng tạo trong toàn nền kinh tế, tạo sự liên kết hữu cơ khoa học - đào tạo - sản xuất kinh doanh, cơ chế tài chính, tín dụng thỏa đáng”; phát triển thị trường công nghệ, quỹ đầu tư mạo hiểm, các khu công nghệ cao, vườn ươm công nghệ, vườn ươm doanh nghiệp, phát triển hệ thống cụm tri thức (knowledge cluster) từ trung ương đến các vùng, các địa phương để hỗ trợ thúc đẩy việc tạo và nhanh chóng sử dụng tri thức sát với tình hình cụ thể; thực thi chính sách thỏa đáng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với từng giai đoạn phát triển, theo nguyên tắc bảo đảm hài hòa lợi ích của người sáng tạo, người sử dụng và lợi ích chung của xã hội, lợi ích của đất nước. Đổi mới sáng tạo (innovation) trở thành động lực chủ yếu của sự tăng trưởng và phát triển khi nó tạo ra những của cải và các giá trị mới. Điều đó đòi hỏi phải đầu tư cho vốn tri thức, phát triển vốn tri thức, không ngừng nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới trong mọi lĩnh vực, không loại trừ lĩnh vực quản lý nhà nước, để có được cách thức quản trị, điều hành mới, tạo những sản phẩm mới, khác biệt, thậm chí duy nhất. 
Để “xây dựng một nền công vụ chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch, hiệu quả vì nhân dân, phục vụ nhân dân, góp phần quan trọng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, phòng chống tham nhũng và bảo đảm sự thành công của công cuộc cải cách mà Đảng và Nhà nước ta đang quyết tâm thực hiện”(2) cần “phát huy trí tuệ tập thể”. Song, cũng cần ý thức rõ ràng rằng trí tuệ tập thể bao gồm các yếu tố cấu thành. Trong nền công vụ đó là “trí tuệ quản lý” - một hình thức biểu hiện đặc biệt của “trí tuệ tập thể”, một loại hình “trí tuệ chuyên môn” quản lý. Trí tuệ quản lý là sự tổng hợp đặc biệt một số phẩm chất trí tuệ xã hội và “phổ quát”, tổ hợp lô-gic và bản năng, với phong cách tư duy nổi trội là tính tổng hợp, phân tích và hữu dụng. Trí tuệ quản lý có ý nghĩa tác động to lớn đến hiệu quả của nền công vụ - hoạt động do công chức nhân danh nhà nước thực hiện theo quy định của pháp luật và được pháp luật bảo vệ nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân. Sự tác động đó tương ứng với tính thứ bậc của nền công vụ. Chức vụ càng cao thì cái giá phải trả cho các sai lầm quản lý cũng càng cao. Có sai lầm ảnh hưởng đến một cá nhân, một tập thể, có sai lầm mà có thể cả một dân tộc phải hứng chịu.
Phân tích đặc thù hoạt động chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức cho thấy trong hoạt động công vụ nảy sinh và hình thành các yếu tố cấu thành của “trí tuệ chuyên môn” như: năng lực và kỹ năng sử dụng hiệu quả các công cụ hoạt động; năng lực tư duy chiến lược sâu và linh hoạt cao, sáng tạo và độc đáo, phân tích lô-gic “phản biện sâu”; hoạch định và tổ chức thực hiện công việc khoa học, có tính tác nghiệp cao, cẩn trọng và tập trung; khả năng phán đoán, phòng ngừa rủi ro, đánh giá khách quan các hậu quả, quyết đoán nhanh trong điều kiện hạn chế về thời gian, trên cơ sở kết hợp với các yếu tố của tư duy trí tuệ xã hội như năng lực tương tác và phối hợp hiệu quả với các đồng nghiệp trong thực thi công vụ.
Người cán bộ, công chức hiện đại với “trí tuệ quản lý” cần là người có:
- Ý chí, nỗ lực quyết tâm; có tích luỹ kinh nghiệm, biết không ngừng trau dồi kiến thức và học hỏi để hoàn thiện mình. Năng lực lãnh đạo là cả một quá trình mà tại đó một cá nhân có ảnh hưởng lên những người khác để họ hoàn thành một mục tiêu và một hướng dẫn nào đó theo phương cách nối kết với nhau sao cho có hiệu quả nhất. Các nhà lãnh đạo thực hiện quá trình này bằng chính các kỹ năng chỉ huy của mình, chẳng hạn như lòng tin, sự tôn trọng, cách ứng nhân xử thế, tính cách, với tư duy sắc sảo của người lãnh đạo (có lô-gic + tầm nhìn), cảm nhận được thực tiễn và luôn đi thẳng vào vấn đề. 
- Có đủ năng lực, tinh thần trách nhiệm, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đặc biệt đối với cán bộ, công chức lãnh đạo phải là người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề trong những hoàn cảnh khó khăn; khi thất bại không hoang mang, khi thắng lợi không kiêu ngạo; luôn luôn giữ đúng kỷ luật.
- Thẩm thấu sâu sắc các giá trị cơ bản cơ bản của nền công vụ: bảo đảm hiệu lực và hiệu quả quản lý; tính trách nhiệm trước Nhà nước và trước nhân dân; tuân thủ pháp luật, thực hiện công bằng xã hội; tôn trọng cống hiến, công trạng và thành tích của công chức; bảo đảm quyền và nghĩa vụ của cán bộ, công chức.
- Có khả năng tiếp cận mới với các vấn đề về chính trị, kinh tế, hành chính, tư pháp, pháp lý, xã hội học, văn hóa dân tộc và sự dung hòa các nền văn hóa khác nhau, vấn đề quốc gia, dân tộc, quản trị công… trong thời đại tri thức, khi nhiều quan niệm, khái niệm thay đổi và xuất hiện mới. 
- Năng lực xác lập các mối quan hệ nhân quả và vấn đề then chốt (“mắt xích” quan trọng; khâu đột phá), mà tập trung vào giải quyết sẽ quyết định được các vấn đề khác.
- Khả năng mô hình hoá các quá trình, quy trình, dự báo (đoán định) được sự phát triển và các hệ quả của hoàn cảnh gắn liền với hoạt động của cơ quan, tổ chức để có cơ sở đưa ra các quyết định quản lý tương ứng.
- Hiểu biết sâu sắc các quan tâm, lợi ích, động cơ và tâm lý con người, năng lực lựa chọn cán bộ, công chức cho các vị trí chủ chốt, tập hợp, đoàn kết và tập trung nỗ lực tập thể cho việc giải quyết các vấn đề đặt ra.
- Năng lực thao tác một khối lượng rất lớn các dữ liệu luôn biến động trong xây dựng các kế hoạch dài hạn và ngắn hạn.
- Tư duy đánh giá phê phán, kỹ năng học tập qua “rút kinh nghiệm”, hiểu biết bản chất các nguyên tắc quản lý, tính cần thiết của các biện pháp cứng rắn và không thông thường trong quan hệ với cấp dưới để đảm bảo tính thứ bậc của nền công vụ.
- Từ điển Pratique du Francais 1987 định nghĩa rất gọn rằng: "Công vụ là công việc của công chức". Như vậy, người cán bộ, công chức cần đảm bảo những yêu cầu về tính chuyên nghiệp của đội ngũ công chức như: tinh thông nghiệp vụ; có các kỹ năng thuần thục để thực thi các nghiệp vụ đó; hiểu rõ và biết vận dụng những nguyên tắc quản lý điều hành như một khoa học và nghệ thuật; hiểu rõ và thực thi đúng quy chế công vụ.
- Đủ năng lực cảm nhận và thực hành các giá trị nhân văn của nền công vụ, khi định hình được tri thức văn hoá nền tảng, “cốt lõi”; xác định rõ phạm vi các khái niệm tinh thần - đạo đức cơ bản và đưa chúng trở thành các hành vi công vụ; xác định được các yếu tố thúc đẩy sự chuyển biến các giá trị nhân văn của giáo dục - giáo dưỡng vào hoàn thiện nhân cách cán bộ, công chức, trên tinh thần đảm bảo mỗi cá nhân sẽ ý thức được các giá trị cơ bản (nền tảng) của cá nhân trong quá trình phát triển nhân cách.
Piter Drucker, nhà quản trị học người Mỹ đã có nhận định rằng: trong thế kỷ XXI, cơ sở nền tảng (nguyên tắc) của hoạt động doanh nghiệp được chuyển từ “dựa trên tổ chức tối ưu hóa” sang “dựa trên tri thức và thông tin”, tức là phần lớn công việc được thực hiện bởi các chuyên gia “tư duy chiến lược”. Trong quản lý nhà nước, nguyên tắc đó cũng rất phù hợp. Dựa vào đó, cần ý thức được rằng: cần có cơ chế quản lý từ “trung tâm đầu não”, nơi nghiên cứu và dự báo các vấn đề mới nảy sinh, còn các đơn vị thừa hành vẫn tiếp tục thực hiện giải quyết các vấn đề đã đặt ra. Những vấn đề dự báo không chỉ có tính lâu dài, mà có thể có tính cấp thiết cần được giải quyết ngay.
Những tri thức và thông tin cần thiết để giải quyết những vấn đề xã hội có thể có được từ 2 nguồn: phương pháp “thử nghiệm” và nghiên cứu khoa học. Phương pháp thử nghiệm dựa trên lựa chọn ngẫu nhiên một trong các phương án giải quyết vấn đề và phân tích các kết quả đạt được. Sau một loạt các thử nghiệm sẽ hình thành kinh nghiệm nhất định (tích cực và tiêu cực). Kinh nghiệm đó sẽ trở thành cơ sở của những tri thức về vấn đề. Trong khi đó, những phương pháp nghiên cứu khoa học hướng tới tìm kiếm các tri thức mới trên cơ sở tiến hành các nghiên cứu chuyên biệt.
Các quyết định được lựa chọn không phải ngẫu nhiên, mà xuất phát từ “tầm nhìn” (hình dung) về hình mẫu (mô hình) vấn đề, tức là hình dung về hệ quả của quyết định đã được lựa chọn. Nếu vấn đề nảy sinh được giải quyết thành công sẽ tạo niềm tin đối với mô hình và tạo ra tri thức về cách giải quyết vấn đề nếu xảy ra tương tự trong tương lai. 
Mô hình quản lý giải quyết những vấn đề mới nảy sinh dựa trên sử dụng hai dạng tri thức, là:
- Tri thức phản ánh kinh nghiệm của mình và thế giới (tích cực và tiêu cực) trong giải quyết vấn đề quản lý;
- Tri thức có được từ mô hình hóa vấn đề và tiến hành các thử nghiệm khoa học đối với mô hình đó.
Tri thức, các tư tưởng và mô hình văn hóa quản lý là sản phẩm của hoạt động sáng tạo của con người làm cơ sở tạo lập văn hóa xã hội, trong đó phản ánh kinh nghiệm thực tiễn và nghiên cứu khoa học trong giải quyết vấn đề. Khác với các thiết chế, sáng kiến và phương thức giải quyết vấn đề hướng tới giải quyết các vấn đề cụ thể, tri thức mang tính phổ quát và cần thiết để giải quyết tất cả mọi vấn đề, tạo ra tri thức như là sản phẩm tinh thần được tích lũy trong xã hội đảm bảo tính tiến bộ của phát triển xã hội.
Quản lý bằng tri thức là một hình thức quản lý dựa trên tri thức về vấn đề, tức là những thông tin cần thiết để xác định và giải quyết các vấn đề quản lý tổ chức. Tri thức sẽ giúp và đảm bảo giảm thiểu tính vô định và rủi ro trong việc ra quyết định, nhất là đối với những quyết định có thể là sai lầm. Thị trường thông tin ngày càng phát triển như vũ bão, thông tin trở thành hàng hóa, được coi là nguồn của tri thức (knowledge resources). Hình thành đội ngũ chuyên gia về tri thức (knowledge officers) có trách nhiệm đảm bảo thông tin cho quá trình ra các quyết định quản lý trong đội ngũ cán bộ, công chức là hết sức cần thiết. Từ đó nảy sinh vấn đề hệ thống hóa tri thức nhằm tìm kiếm nhanh chóng các thông tin cần thiết. Đặc biệt là việc cần thiết chuyển từ hệ thống thông tin theo ngành, lĩnh vực (tài chính, kinh tế, văn hóa… ) sang hệ thống theo “tư duy vấn đề” nhằm giải quyết ngay và càng nhanh chóng hiệu quả hơn các vấn đề quản lý.
Công cuộc cải cách và đổi mới nền hành chính nhà nước trong giai đoạn trước mắt đang đứng trước những thách thức của sự chuyển đổi về chất sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Sự vận hành nền kinh tế theo các quy luật của thị trường đòi hỏi phải đổi mới mạnh mẽ vai trò, chức năng của Nhà nước nói chung và của nền hành chính nhà nước nói riêng, đòi hỏi phải chuyển mạnh sang nền hành chính “phục vụ". Phải thấy rằng hội nhập quốc tế và khu vực vừa là thời cơ, thuận lợi, vừa đặt ra thách thức mới đối với nền hành chính nhà nước; quá trình đẩy mạnh dân chủ hóa đời sống xã hội, các yêu cầu về phát huy dân chủ cơ sở, thu hút mạnh mẽ sự tham gia của người dân vào quản lý nhà nước, về đảm bảo tính công khai, minh bạch trong thể chế, chính sách, thủ tục hành chính cũng như trong thực thi công vụ đòi hỏi, buộc các cơ quan nhà nước và các cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính phải thích ứng cả về nội dung lẫn phương thức hoạt động; đồng thời các tiến bộ khoa học, công nghệ, yêu cầu hiện đại hóa nền hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử có tác động mạnh mẽ, trực tiếp tới tổ chức, hoạt động của các cơ quan trong hệ thống hành chính, tới việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cả về trình độ, năng lực, ý thức trách nhiệm và tác phong, phương pháp công tác. Hơn thế nữa, ảnh hưởng của cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp trước đây, sức ỳ của nền hành chính cũ đang in đậm trong nếp nghĩ, cách làm của đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy, đang là trở ngại, thách thức lớn đối với công cuộc cải cách và hiện đại hoá hành chính nhà nước hiện nay.
Tóm lại, để phấn đấu có được một nền hành chính thật sự dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại, phù hợp với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong điều kiện mở cửa hội nhập quốc tế hướng tới xây dựng nền kinh tế tri thức, cần hiểu rõ rằng: Tri thức và công nghệ thông tin làm chuyển đổi rất nhanh cơ cấu kinh tế xã hội. Các công nghệ cao, truớc hết là công nghệ thông tin là nguồn gốc mọi sự biến đổi lớn lao trong sản xuất xã hội, góp phần đẩy mạnh cả sự đổi mới tư duy và tất yếu dẫn tới nền kinh tế tri thức toàn cầu hoá. Tri thức và thông tin luôn luôn đi tới những nơi có nhu cầu cao nhất và bị ít rào cản nhất. Vì vậy, cần đổi mới toàn diện các lĩnh vực: đổi mới mô hình tăng trưởng theo định hướng kinh tế tri thức, đổi mới doanh nghiệp theo hướng doanh nghiệp tri thức, đổi mới toàn diện và triệt để giáo dục và đào tạo, xây dựng đội ngũ trí thức đủ năng lực sáng tạo, xây dựng đội ngũ công nhân tri thức, xây dựng xã hội học tập, đổi mới hệ thống khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực khoa học và công nghệ quốc gia, phát triển mạnh hạ tầng thông tin, xây dựng xã hội thông tin, hình thành hệ thống đổi mới sáng tạo có thể nhanh chóng biến tri thức thành giá trị. Vốn tri thức xã hội gắn liền với vốn con người - những nguồn lực cơ bản của phát triển. Tài nguyên là có hạn, tri thức, sự sáng tạo là vô hạn. Sức mạnh cạnh tranh trên mọi lĩnh vực ngày nay là cạnh tranh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, là chuyển dịch hiệu quả từ trang bị kiến thức sang bồi dưỡng năng lực trong một xã hội học tập suốt đời, kể cả trong nền công vụ. Một nền công vụ hiện đại phải là “trí tuệ”, với đội ngũ cán bộ, công chức có tính chuyên nghiệp cao. Tương lai phát triển của đất nước phụ thuộc phần lớn vào đội ngũ cán bộ, công chức trí tuệ, chuyên nghiệp, tận tụy phục vụ xã hội. Sự kích hoạt đối với chuyển động đó không là gì khác, ngoài ý chí chính trị của Đảng và sự nhất quán hành chính của Nhà nước./.
-------------------------------------------
Chú thích:
1. Nghị quyết Đại hội dại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII.
2. Nguyễn Xuân Phúc. Quyết tâm cải cách công vụ, công chức để xây dựng một nền hành chính phục vụ nhân dân. Cổng TTĐT Chính phủ.http://baodientu.chinhphu.vn
PGS.TS. Lưu Kiếm Thanh, PGS.TS. Ngô Thành CanHọc viện Hành chính quốc gia
Nguồn chép: Tạp Chí Cộng Sản